TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 91/2019/HS-PT NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 81/2019/HS-PT ngày 30-7-2019 đối với bị cáo: Nguyễn Trọng Q và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2019/HS-ST ngày 17/06/2019 của Toà án nhân dân huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đăk Nông.
Các bị cáo bị kháng nghị:
1. Nguyễn Trọng Q, sinh năm 1989 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn Z, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Đặng Thị N; nhân thân: Bản án số: 40/2008/HS-ST, ngày 19-12-2008 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt từ ngày 14-8-2009; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04-10-2018 - Vắng mặt.
2. Đậu Bảo T (tên gọi khác: T I) sinh năm 1991 tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn Z, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đậu Văn C và bà Phạm Thị V; có vợ là Vy Thị T và 01 con; nhân thân: Bản án số: 46/2018/HS-ST, ngày 15-11-2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và Bản án số: 02/2019/HS-ST ngày 08-01-2019 của Tòa án nhân dân huyện huyện Đ, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08-9-2018 - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Trọng Q và Đậu Bảo T là bạn quen biết và đã cùng bàn bạc trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, Q là người chuẩn bị dụng cụ phá khóa điện. Trong khoảng thời gian từ tháng 12-2017 đến tháng 10-2018, Q đã thực hiện 15 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Đ và huyện T, trong đó T tham gia cùng Q 12 vụ, cụ thể:
Vụ thứ 1: Khoảng 20 giờ ngày 22-12-2017, tại thôn 1, xã Đ, huyện Đ, Q đã sử dụng vam phá khóa chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển 48H1-091.31 của chị Lê Thị Mai P và đưa đến khu vực cầu S thuộc xã M, huyện B, tỉnh Bình Phước bán cho người tên N (không rõ nhân lai lịch) được số tiền 4.000.000 đồng.
Vụ thứ 2: Khoảng 20 giờ (không nhớ ngày) trong tháng 12 năm 2017, tại thôn 7, xã Đ, huyện Đ (đối diện trường THPT T),Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 47H1-473.38 của anh Đồng Hữu L và bán cho N được số tiền 6.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 3: Khoảng một ngày (không nhớ ngày) trong tháng 01-2018, tại khu tái định cư (thuộc thôn O, xã Đ, huyện Đ) Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48H1-043.42 của anh Đoàn Quang Đ và bán cho N được số tiền 3.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 4: Khoảng 20 giờ ngày 09-01-2018, tại thôn I, xã Đ, huyện Đ (đối diện Ủy ban nhân dân xã Đ), Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48H1-091.78 của anh Đ và bán cho N được số tiền 3.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 5: Khoảng 21 giờ ngày 04-02-2018, tại khu vực ngã 3 nhà hàng T thuộc thôn I, xã Đ, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48H1-049.30 của chị T và bán cho N được số tiền 5.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 6: Khoảng 21 giờ ngày 11-02-2018, tại thôn U, xã K, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48H1-043.42 của anh Nguyễn Văn H và bán cho N được số tiền 3.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 7: Vào khoảng 20 giờ ngày 12-02-2018 tại khu vực cây xăng M cạnh Uỷ ban nhân dân xã N, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Wave, biển kiểm soát 48H1-1845 của anh Lương Chí T và bán cho N được số tiền 3.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 8: Vào khoảng 21 giờ ngày 12-3-2018, tại khu vực chợ N, xã N, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48B1-206.30 của chị Hồ Thị N và bán cho N được số tiền 4.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 9: Vào khoảng 21 giờ ngày 27-3-2018, tại quán game H, thôn I, xã Đ, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48 H1- 112.53 của anh Điểu M và bán cho N được số tiền 3.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 10: Vào khoảng 21 giờ ngày 30-3-2018, tại thôn P, xã K, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius,biển kiểm soát 49G1-298.21 của chị Vũ Thị Thùy A và bán cho N được số tiền 2.500.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 11: Vào khoảng 20 giờ ngày 11-4-2018, tại thôn U, xã K, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48B1-130.71 của anh Ngô Văn T và bán cho N được số tiền 3.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 12: Vào khoảng 21 giờ ngày 15-4-2018, tại khu vực ngã ba Đ, xã Đ, huyện Đ, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 36E1-245.02 của bà Lê Thị Bích L và bán cho N được số tiền 4.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 13: Vào khoảng 21 giờ ngày 30-9-2018, tại thôn I, xã Đ, huyện Đ, Q dùng vam phá ổ khóa để chiếm đoạt xe mô tô loại xe Vision, biển kiểm soát 81T1-130.16 của chị Nguyễn Thị H nhưng do vam bị gãy trong ổ khóa điện của xe mô tô nên không mở được khóa, sợ bị phát hiện nên Q bỏ trốn. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, chị H lấy xe ra về phát hiện xe bị phá ổ khóa nên đã báo cơ quan chức năng.
Vụ thứ 14: Vào khoảng 21 giờ (không nhớ ngày) trong tháng 3-2018, tại thôn 3 xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông, Q và T chiếm đoạt xe mô tô loại Sirius, biển kiểm soát 48H1-137.57 của bà Nguyễn Thị H và bán cho N được số tiền 5.000.000 đồng chia nhau.
Vụ thứ 15: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 01-10-2018, tại thôn I, xã Đ, huyện Đ, Q đang sử dụng vam phá ổ khóa điện xe mô tô loại xe Sirius, biển kiểm soát 48H1-075.77 của anh Vòng Nàm S thì bị phát hiện đuổi bắt, Q trốn thoát. Đến ngày 04-10-2018, Q đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đầu thú.
Kết luận định giá tài sản số: 32 ngày 10-10-2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ kết luận giá trị xe mô tô biển kiểm soát: 48H1-091.31 là 17.600.000 đồng, 48H1-069.30 là 17.600.000 đồng, 48H1-1845 là 10.800.000 đồng, 48B1- 206.30 là 15.400.000 đồng, 48H1-112.53 là 19.800.000 đồng, 36E1-245.02 là 19.800.000 đồng, 81T1-130.16 là 22.400.000 đồng và 48H1-075.77 là 15.400.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số: 37A ngày 14-12-2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đ kết luận giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 47H1-473.38 là 20.900.000 đồng, 48H1-043.42 là 14.080.000 đồng, 48H1-091.78 là 16.500.000 đồng, 36N7-8632 là 7.700.000 đồng, 49G1-298.21 là 16.500.000 đồng và 48B1- 130.71 là 9.900.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số: 58 ngày 12-12-2018 của Hội đồng định gía tài sản huyện T kết luận giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48H1-137.57 là 22.021.875 đồng.
Tổng giá trị tài sản bị đã chiếm đoạt là 246.401.875 đồng, trong đó T tham gia cùng Q chiếm đoạt 191.001.875 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2019/HS-ST ngày 17-6-2019 của Toà án nhân dân huyện Đ đã quyết định: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; các điểm r, s khoảng 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Trọng Q 08 năm tù. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; các điểm r, s khoảng 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đậu Bảo T 04 năm tù.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 01-7-2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’lấp kháng nghị một phần bản án sơ thẩm số: 35/2019/HS-ST ngày 17-6-2019 của Toà án nhân dân huyện Đắk R’lấp, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không áp dụng tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” đối với các bị cáo mà áp dụng tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trọng Q, điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Đậu Bảo T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đậu Bảo T khai nhận không có nghề nghiệp ổn định và sử dụng số tiền được chia trong các lần trộm cắp tài sản cùng bị cáo Nguyễn Trọng Q sử dụng vào các sinh hoạt cá nhân.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’lấp, sửa bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật; giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo Q và xử phạt bị cáo T từ 05 đến 05 năm 06 tháng tù.
Bị cáo T không tranh luận, bào chữa chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị cáo Nguyễn Trọng Q đã được Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông giao các văn bản tố tụng và tiến hành trích xuất lần thứ hai đến phiên tòa phúc thẩm, tuy nhiên do nguyên nhân khách quan nên chưa trích xuất được. Mặt khác, nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’lấp đề nghị sửa về áp dụng pháp luật không liên quan đến hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.
[2]. Trong khoảng thời gian từ tháng 11-2017 đến tháng 10-2018 các bị cáo Nguyễn Trọng Q và Đậu Bảo T đã thực hiện 15 vụ trộm cắp xe mô tô tổng giá trị tài sản là 246.401.875 đồng, trong đó bị cáo T tham gia cùng bị cáo Q thực hiện 12 vụ trộm cắp giá trị tài sản được xác định là 191.001.875 đồng. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2019/HS-ST ngày 17-6-2019 của Toà án nhân dân huyện Đắk R’lấp đã kết án bị cáo Nguyễn Trọng Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và bị cáo Đậu Bảo T theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng nghị của Viện kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’lấp, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
3.1. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, biên bản phiên tòa sơ thẩm và lời khai của bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử có căn cứ để kết luận: Các bị cáo Q và T đều không có công việc ổn định, lao động tự do, trong khoảng thời gian ngắn các bị cáo đã thực hiện cùng nhau thực hiện 12 vụ trộm cắp tài sản, giá trị tài sản chiếm đoạt thấp nhất là 7.700.000 đồng, cao nhất là 22.400.000 đồng, đồng thời các bị cáo đều sử dụng số tiền bán tài sản do trộm cắp mà có vào các sinh hoạt thiết yếu của bản thân. Như vậy, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’lấp về việc áp dụng tình tiết“Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” đối với các bị cáo Q và T là có căn cứ và phù hợp với hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị quyết số: 01/2006/HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể: Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
3.2. Xét mức hình phạt Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân huyện Đăk R’lấp đã quyết định đối với bị cáo Đậu Bảo T là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả do bị cáo đã gây ra cũng như nhân thân của bị cáo, cụ thể: Số tiền bị cáo cùng đồng phạm chiếm đoạt được xác định là 191.001.875 đồng gần bằng mức định lượng tối đa quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Về nhân thân: Ngày 15-11-2018 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông kết án về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 08-01-2019 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đăk Nông về việc tăng hình phạt đối với bị cáo T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’lấp, sửa bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và hình phạt.
1.1. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Trọng Q 08 (Tám) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 04- 10-2018.
1.2. Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 173; các điểm r, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đậu Bảo T 05 (Năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp hình phạt 04 (Bốn) năm tù tại Bản án số: 02/2019/HS-ST ngày 08-01-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông, buộc Đậu Bảo T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 09 (Chín) năm tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 08-9-2018 và được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 22-12-2017 đến ngày 28-12-2017.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 91/2019/HS-PT ngày 04/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 91/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về