Bản án 90/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 90/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019 tại Trung tâm Văn hóa – Thể thao và Học tập cộng đồng xã P thuộc ấp C, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Minh T, tên gọi khác: Không có, sinh năm 1991, tại huyện G, tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: Ấp X, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C1 và bà Lê Thị Phước H; vợ tên Nguyễn Thị H1 (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: không có; tiền sự: Ngày 27-8-2016 bị Công an xã P, huyện G xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa chấp hành nộp phạt); bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10-5-2019 cho đến nay; bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp L, xã LT, huyện H, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 10-5-2019 Nguyễn Văn T, ngụ ấp V, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh điện thoại cho bị cáo Phạm Minh T để hỏi mua 300.000 đồng ma túy nên bị cáo đồng ý và hẹn Nguyễn Văn T đến nhà thuộc ấp X, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh để giao ma túy. Sau đó, bị cáo điện thoại cho Lương Đại H1 (tự C1) để hỏi mua 300.000 đồng ma túy thì Lương Đại H1 đồng ý bán và hẹn giao nhận ma túy tại khu vực gần Trường Trung học cơ sở Trần Hưng Đạo, thuộc ấp C, xã P, huyện G. Khi có ma túy bị cáo đem về nhà phân ra thành hai phần, bỏ ma túy vào hai bịch nylon, một bịch đem cất giấu ở ống gạch trong phòng, một bịch bị cáo giữ trong người để bán cho Nguyễn Văn T. Khoảng 15 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn T và Nguyễn Ngọc H, ngụ ấp L, xã LT, huyện H, tỉnh Tây Ninh đến nhà bị cáo giao tiền và nhận một bịch ma túy thì bị bắt quả tang.

Ngoài ra, bị cáo còn khai nhận vào ngày 10-4-2019 bị cáo đã bán cho Nguyễn Văn T một bịch ma túy với giá 200.000 đồng, tại khu vực trường Trường Trung học cơ sở Trần Hưng Đạo, thuộc ấp C, xã P, huyện G. Ngày 25-4-2019 bị cáo đã bán cho Nguyễn Văn T một bịch ma túy với giá 200.000 đồng tại nhà của bị cáo.

Vật chứng thu giữ gồm: 02 bịch nylon màu trắng được hàn kín bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, 01 cây kéo, 01 ống thủy tinh, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và tiền Việt Nam 300.000 đồng.

Kết luận giám định số: 667/KL-KTHS ngày 13-5-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:

- Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng (thu trên tay Nguyễn Ngọc Hùng) được hàn kín (ký hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0163 gam.

- Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng (thu trong ống gạch trong phòng của bị cáo) được hàn kín (ký hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0658 gam.

Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu không kê biên.

Đối với Lương Đại H1, bị cáo khai là người đã bán ma túy, nhưng qua làm việc và đối chất H1 không thừa nhận bán ma túy cho bị cáo. Do chỉ có một lời khai bị cáo nên không có cơ sở xử lý.

Đối với Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc H và Lương Đại H1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện Gò Dầu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Tại Cáo trạng số 90/CT-VKSGD ngày 14-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố bị cáo Phạm Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Minh T từ 09 năm đến 10 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không trình bày lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và có đủ căn cứ xác định:

Bị cáo Phạm Minh T là người nghiện ma túy, do muốn có thu lợi bất chính cao, để có tiền tiêu xài cá nhân và có ma túy để sử dụng, nên bị cáo đã hoạt động mua bán trái phép chất ma túy từ tháng 4-2019 đến tháng 05-2019 tại xã P, huyện G tỉnh Tây Ninh. Bị cáo đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng nghiện là Nguyễn Văn T và Nguyễn Ngọc H. Lúc 15 giờ ngày 10-5-2019 tại nhà của bị cáo thuộc ấp X, xã P, huyện G, tỉnh Tây Ninh khi bị cáo đang bán ma túy cho Nguyễn Văn T và Nguyễn Ngọc H, thì bị bắt quả tang cùng vật chứng là 02 bịch nylon chất ma túy, là loại Methamphetamin, có tổng khối lượng là 0,0821 gam. Hành vi nhiều lần bán trái phép chất ma túy của bị cáo cho các đối tượng nghiện nên thuộc tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên”. Do đó, hành vi của bị cáo xét thấy có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, làm mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và đời sống xã hội. Cho nên cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc mới đủ sức răn đe và tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật khi hòa nhập cộng đồng, nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng bị cáo có nhân thân xấu do ngày 27-8-2016 bị Công an xã P, huyện G xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, cho đến nay bị cáo vẫn chưa chấp hành nộp phạt. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và đã tự thú nhiều lần phạm tội, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản và không có nghề nghiệp ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với Lương Đại H1, bị cáo khai H1 là người đã bán ma túy, nhưng qua làm việc và đối chất H1 không thừa nhận đã bán ma túy cho bị cáo. Do chỉ có một lời khai của bị cáo nên không có cơ sở xử lý H1 là phù hợp.

Đối với Nguyễn Văn T, Nguyễn Ngọc H và Lương Đại H1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện Gò Dầu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp:

Các vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) cây kéo bằng kim loại, 01 (một) ống thủy tinh, 01 (một) chai nhựa có nắp màu trắng, phía trên có gắn ống thủy tinh và một ống nhựa màu trắng sọc đỏ đều không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu và tiêu hủy; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím đã qua sử dụng, model 105, số IMEI: 353051/06/861779/0 của bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy và số tiền Việt Nam 300.000 đồng của bị cáo bán ma túy mà có nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là phù hợp với Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05-9-2019) [7] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Minh T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-5-2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) cây kéo bằng kim loại, 01 (một) ống thủy tinh, 01 (một) chai nhựa có nắp màu trắng, phía trên có gắn ống thủy tinh và một ống nhựa màu trắng sọc đỏ.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, loại bàn phím đã qua sử dụng, model 105, số IMEI: 353051/06/861779/0 và tiền Việt Nam 300.000 đồng.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05-9-2019) 3. Án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về