Bản án 894/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 894/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 292/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị D, sinh năm 1967 (có mặt).

Địa chỉ: 50/25 Đường N, Phường A, quận P, Tp. HCM.

- Bị đơn: Ông Phan Bản T, sinh năm 1960 (vắng mặt).

Địa chỉ: 50/25 Đường N, Phường A, quận P, Tp. HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/4/2019, các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đỗ Thị D trình bày:

Bà và ông Phan Bản T tự nguyện đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 193; Q1/96 ngày 23 tháng 8 năm 1996 do UBND quận Phú Nhuận cấp. Sau khi kết hôn, bà chung sống cùng gia đình chồng, từ đó phát sinh nhiều bất đồng giữa các thành viên trong gia đình, cuộc sống không hòa thuận làm ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Khi mâu thuẫn đỉnh điểm bà đã ôm con bỏ đi và không sống chung với ông T từ năm 1998. Hiện nay, giữa bà và ông T không còn tình cảm, không quan tâm chăm sóc nhau mà chỉ còn trách nhiệm với con chung. Vì nay con đã lớn, đời sống hôn nhân trên thực tế đã không còn, nên tôi có yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: có 01 con tên là Phan Bản Quốc N, sinh ngày 15/02/1996. Con chung đã trưởng thành.

- Về tài sản: Bà xác định giữa bà và ông T không có tài sản chung không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Đỗ Thị D giữ nguyên yêu cầu ly hôn.

Bị đơn ông Phan Bản T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán:

+ Về tố tụng: Qua việc kiểm tra việc giải quyết vụ án dân sự đã được Toà án nhân dân quận Phú Nhuận thụ lý số 292/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019, Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết; việc thông báo thụ lý vụ án; về việc tống đạt, thông báo văn bản tố tụng; triệu tập đầy đủ các đương sự để tự khai, mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được tuân thủ đúng quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Tòa án thụ lý vụ án vào ngày 02/5/2019, đến ngày 28/10/2019, Thẩm phán ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử l thời hạn là chưa đúng thời hạn xét xử theo quy định tại điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên toà Hội đồng xét xử tiến hành mở phiên toà đúng thời gian, địa điểm, thành phần đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Các thủ tục tố tụng và nguyên tắc xét xử tại phiên toà tuân thủ đúng luật định.

- Về nội dung và các yêu cầu của đương sự: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đỗ Thị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận giữa các bên đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, nhận định:

[1] Quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án:

- Quan hệ tranh chấp: Vụ kiện giữa bà Đỗ Thị D và ông Phan Bản T là yêu cầu ly hôn được quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Thẩm quyền giải quyết: Bà Đỗ Thị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phan Bản T có nơi cư trú tại 50/25 Đường N, Phường A, quận P, Tp. HCM nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú nhuận theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng:

- Quá trình tố tụng vụ án, Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận tham gia phiên tòa sơ thẩm thuộc trường hợp được qui định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Xét trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tiến hành thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177, 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhưng bị đơn ông Phan Bản T đều vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt bị đơn ông Phan Bản T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Xét việc giao nộp, tiếp cập, công khai chứng cứ: Theo biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ lập ngày 17/7/2019, nguyên đơn có mặt và đã thực hiện việc công khai, giao nộp chứng cứ. Tòa án cũng tống đạt thông báo kết quả phiên họp về giao nộp, tiếp cập, công khai chứng cứ cho bị đơn theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Các đương sự đã biết được chứng cứ của nhau và không có ai yêu cầu, khiếu nại gì. Hội đồng xét xử xét giải quyết vụ án sơ thẩm trong phạm vi yêu cầu và các chứng cứ của đương sự giao nộp, các bên đương sự thừa nhận, không có ý kiến phản đối là đảm bảo nguyên tắc cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 6, Điều 91, 92, 95, 96 và Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Xét các yêu cầu của đương sự 3.1 Về hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 193; Q1/96 ngày 23 tháng 8 năm 1996 do UBND quận Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh cấp, thể hiện hôn nhân giữa bà Đỗ Thị D và ông Phan Bản T là hợp pháp.

Xét trong cuộc sống hôn nhân giữa bà D và ông T xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không thể chia sẻ, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, bà D và ông T đã không còn tồn tại đời sống chung nên bà D yêu cầu được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Xét thấy, vợ chồng phải quan tâm chăm sóc, chia sẽ giúp đỡ nhau, nhưng trong cuộc sống hôn nhân giữa bà D và ông T không còn sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, đời sống hôn nhân không tồn tại trên thực tế. Mặt khác, khi bà D nộp đơn yêu cầu ly hôn, ông T đã được Tòa án triệu tập để làm việc và hòa giải nhưng đều vắng mặt, cho thấy ông T không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân với bà D. Vì mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà D yêu cầu ly hôn ông T để ổn định cuộc sống là chính đáng phù hợp với điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

3.2 Về con chung: Bà và ông T có 01 con chung tên Phan Bản Quốc N, sinh ngày 15/02/1996. Con chung đã trưởng thành.

3.3 Về tài sản: Bà D xác định bà và ông T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên - Đại diện VKSND quận Phú Nhuận:

- Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên về quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định;

- Chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên về nội dung và hướng xử lý vụ án: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà D phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, điểm a khoản 1 Điều 92; Điều 96, 97, Điều 210; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 269, 273, 277, 278, 280, 281 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 2, 6, 7, 9; Điều 26, 30, 35, 53; và Điều 105 của Luật thi hành án dân sự;

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị D.

1.1 Về hôn nhân:

Bà Đỗ Thị D được ly hôn với ông Phan Bản T.

1.2 Về con chung: Bà D và ông T có 01 con chung tên Phan Bản Quốc N, sinh ngày 15/02/1996 đã trưởng thành nên không xét.

1.3 Về tài sản: Bà D xác định không có tài sản chung nên không xét.

2. Về án phí:

Bà Đỗ Thị D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0041787 ngày 26/04/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 894/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:894/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về