Bản án 89/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HOÀ- TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 89/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 30/11/2020, tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2020/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2020; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2020/QĐXX-HSST ngày 18 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo :

Họ và tên: Đào Xuân P ; Tên gọi khác: không.

Giới tính: Nam; Sinh năm : 1981

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Phố Vòng Huyện, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa lớp: 12/12

Quốc tịch: Việt Nam;  Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Con ông: Đào Bạch Thuần (tên gọi khác: Đào Văn Sen) (đã chết).

Con bà: Hà Thị T, sinh năm 1943;

Vợ: Lương Thị Hồng, sinh năm 1992; có 01 con, sinh năm 2015; Anh, chị em ruột: Gia đình có 06 anh em, bị cáo là thứ 6.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 30/7/2020 đến ngày 07/8/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ( có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Anh Đoàn Anh B, sinh năm 1973 (vắng mặt) Nơi cư trú: phố Thống Nhất, thị trấn Bố Hạ, Yên Thế, Bắc Giang.

2. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1978 (vắng mặt) Nơi cư trú: phố Thống Nhất, thị trấn Bố Hạ, Yên Thế, Bắc Giang.

3.Bà Hà Thị T, sinh năm: 1943 (có mặt) Nơi cư trú: phố Vòng Huyện, thị trấn Bố Hạ, Yên Thế, Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, tại khu vực đường liên xã thuộc thôn Thống Nhất, xã Hoàng Thanh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Đào Xuân P đang có hành vi sử dụng chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios biển kiểm soát 98A-053.11 để vận chuyển trái phép hàng cấm. Vật chứng thu giữ gồm: thu tại cốp xe ô tô của Phong 04 (bốn) thùng bìa cát tông phía ngoài ghi dạng chữ Trung Quốc, bên trong mỗi thùng chứa 12 khối hình hộp; 02 túi nilon (một túi màu vàng, một túi màu đen), mỗi túi bên trong chứa 03 khối hình hộp, tất cả nghi là pháo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong số vật chứng nghi là pháo nêu trên.

Căn cứ vào lời khai của Đào Xuân P, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Đoàn Anh B, sinh năm 1973 ở   phố Thống Nhất, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế ; kết quả, không thu giữ được tài sản gì liên quan đến hàng cấm.

Ngày 31/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa ra Quyết định số 122/QĐ, trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giám định 54 khối hình hộp nghi là pháo, đựng trong 05 thùng bìa cát tông đã được niêm phong khi bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 995/KL-KTHS ngày 04/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Giang kết uận: “54 (năm mươi tư) khối hình hộp vuông (mỗi khối đều có đặc điểm: kích thước (14,5 x 14,5 x 14,5)cm; bên ngoài được bọc giấy in hoa văn nhiều màu và chữ dạng chữ Trung Quốc; bên trong mỗi khối hình hộp gồm 36 (ba mươi sáu) vật hình trụ tròn, vỏ giấy được liên kết với nhau) đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ), tổng khối lượng là 75,0kg (bẩy mươi lăm phẩy không ki lô gam)” ).

Ngày 30/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã kiểm tra chiếc điện thoại Iphone thu giữ của Đào Xuân P khi bắt quả tang. Kết quả: Tại mục  nhật ký cuộc gọi có ba số điện thoại gọi đến, theo Phong khai số điện thoại   0919168138 là của Đoàn Anh B; số điện thoại 0827009282 là của Nguyễn Thị H và số điện thoại 0342560042 là của người mua pháo; tại phần nhật ký tin nhắn văn bản có 03 tin nhắn, theo Phong khai là tin nhắn của Phong và

Hương trao đổi về việc vận chuyển pháo. Ngày 31/7/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã kiểm tra điện thoại của Đoàn Anh B và Nguyễn Thị H, kết quả không có nhật ký cuộc gọi đi đến, tin nhắn gì liên quan đến hành vi mua bán, vận chuyển hàng cấm.

Kết quả thu giữ thư tín, điện tín xác định: Số điện thoại 0919168138 chủ thuê bao mang tên Đoàn Anh B; số điện thoại 0827009282 chủ thuê bao anh Lương Trọng Hiếu, sinh năm 1996 ở xã Đông Sơn, huyện Yên Thế; số điện thoại 0964216846 (Phong khai mua và sử dụng  sim rác trước đó) chủ thuê bao mang tên Đinh Thế Long, sinh năm 1992  ở Bắc Hà, tỉnh Lào Cai; số điện thoại 0978619318 chủ thuê bao là Nguyễn Thị H; số điện thoại 0342560042 chủ thuê bao là Phạm Văn Chín, sinh năm 1973 ở Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa. Theo anh Hiếu và anh Chín khai không đăng ký và sử dụng hai số điện thoại trên cũng như không có quan hệ với Bích, Hương và Phong .

Quá trình điều tra, Đào Xuân P khai nhận: Phong là lái xe dịch vụ tại gia đình, Phong quen biết với Đoàn Anh B và Nguyễn Thị H đều ở phố Thống Nhất, thị  trấn  Bố  Hạ,  huyện  Yên  Thế  do  ở  cùng  thị  trấn.  Khoảng  14  giờ  ngày 30/7/2020, Phong đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Bích, Bích thuê Phong chở mấy thùng pháo đến huyện Hiệp Hòa và Phong đồng ý. Sau đó, Phong điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios biển kiểm soát 98A- 053.11 đến nhà Bích. Tại đây, Phong thấy có Bích, Hương và một người đàn ông (Phong không biết tên, tuổi địa chỉ ở đâu) đang có mặt tại nhà Bích, sau khi thỏa thuận cước chở là 2.000.000 đồng và sẽ thanh toán tiền khi giao hàng xong thì Phong ra mở cốp xe ô tô để Bích dùng xe rùa chở 04 thùng cát tông chứa 48 giàn pháo xếp vào bên trong cốp xe ô tô, còn Hương thì xách ra một túi ni lon bên trong có chứa 06 giàn pháo. Do cốp xe ô tô gần đầy nên Hương đã  chia 06 giàn pháo ra làm 02 túi nilon (mỗi túi đựng 03 giàn pháo) rồi để kẹp giữa hai thùng pháo trước đó. Tổng số pháo chứa trong 04 thùng bìa cát tông và 02 túi nilon là 54 giàn.  Sau khi đã để pháo lên xe ô tô, Phong được người đàn ông có mặt tại nhà Bích đi xe máy dẫn đường. Khi đi đến đoạn ngã ba, một đường rẽ theo hướng xã Nhã Nam – Tân Yên và một đường hướng thị trấn Cao Thượng – Tân Yên đi xã Hoàng Thanh, huyện Hiệp Hòa thì Phong đi theo hướng thị trấn Cao Thượng để đến huyện Hiệp Hòa còn người đàn ông kia đi theo hướng xã Nhã Nam, huyện Tân Yên. Do không thấy người này tiếp tục dẫn đường, Phong điện thoại hỏi Hương thì Hương nói người này sẽ liên lạc với Phong sau. Khoảng 10 phút sau, Phong nhận được điện thoại của người đàn ông này bảo Phong cứ đi sang khu vực chợ Hoàng Thanh, huyện Hiệp Hòa và chờ ở đó. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Phong điều khiển xe ô tô đi đến địa phận thôn Thống Nhất, xã Hoàng Thanh để chờ người đàn ông mua pháo ở đó thì bị Tổ công tác của Công an huyện Hiệp Hòa kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Đối với Đoàn Anh B và Nguyễn Thị H, Cơ quan điều tra lấy lời khai và tiến hành đối chất với Đào Xuân P nhưng Bích và Hương đều không thừa nhận việc mua, bán hay thuê Phong chở pháo về huyện Hiệp Hòa, do vậy không có căn cứ để xử lý hai đối tượng này  (BL: 150-156). Đối với người đàn ông theo Phong khai mua pháo của Bích và Hương, Phong không biết tên, tuổi địa chỉ ở đâu nên không có căn cứ xác minh. Kết quả rút list số điện thoại 0342560042 mà Phong liên lạc trong quá trình vận chuyển pháo, xác định chủ thuê bao là ông Phạm Văn Chín, sinh năm 1973 ở xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa. Cơ quan điều tra đã làm việc với ông Chín, ông Chín cung cấp từ trước đến nay không sử dụng số thuê bao trên, cũng không quen biết Bích và Hương. Cơ quan điều tra đã cho Đào Xuân P nhận dạng đối với ông Chín, kết quả Phong xác định người mua pháo không phải là ông Chín nên không có căn cứ xử lý (BL: 54-57).

Về vật chứng: Chiếc điện thoại di động Iphone  màu ghi thu giữ của Phong khi bắt quả tang là của Phong sử dụng liên lạc vận chuyển pháo; Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 98A- 063.11, đăng ký chủ xe mang tên Đào Xuân P, theo Phong và bà Hà Thị T (mẹ đẻ Phong) khai là tài sản chung của bà Thành và Phong mua vào năm 2014 để  làm phương tiện đi lại và chở khách thuê; bà Thành không biết Phong dùng vào việc phạm tội. Số tiền 350.000đ là của Phong không sử dụng vào việc phạm tội. Các vật chứng này, hiện Cơ quan điều tra đang tạm giữ chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 90/CT-VKS-HH ngày 09 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hoà truy tố Đào Xuân P về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Đào Xuân P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sau khi phân tích tính chất của vụ án vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố của bản cáo trạng, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Đào Xuân P phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm g khoản 2, khoản 4 Điều 191; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đào Xuân P từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, Bắc Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 triệu đồng đến 12 triệu đồng.

* Về vật chứng: Áp dụng  điểm c Khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a ; điểm a Khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS 

- Tịch thu tiêu hủy 05 thùng bìa cát tông, bên trong có chứa 66,4kg pháo, mỗi thùng đều có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Giang, chữ ký cùng tên của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu.

-  Tịch thu xung công nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu ghi, số IMEL : 358604071490426.

- Trả lại cho bị cáo : 01 xe ô tô BKS 98A-053.11, nhãn hiệu TOYOTA VIOS ( đã qua sử dụng). ; 01 Giấy phép lái xe mang tên Đào Xuân P ; 01 Giấy đăng kiểm đối với xe ô tô BKS : 98A-053.11 ; 01 Chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với xe Oto BKS 98A-053.11 ; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe ô tô số : 20051774 ; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 98A-053.11 và số tiền 350.000đồng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí, áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326 của UBTVQH,  bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo bào chữa: Bị cáo không ý kiến gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai bị cáo và tự bào chữa của bị cáo, ý kiến của Kiểm sát viên; kết luận giám định, lời khai người chứng có trong hồ sơ và vật chứng thu được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Hòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 30 phút, ngày 30/7/2020, Đào Xuân P đã có hành vi dùng xe ô tô biển kiểm soát 98A-053.11 vận chuyển trái phép 54 giàn pháo nổ, có tổng khối lượng 75,0kg (Bảy mươi lăm phẩy không kilôgam) đến khu vực thôn Thống Nhất, xã Hoàng Thanh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang thì bị Công an huyện Hiệp Hòa phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Đào Xuân P đã phạm tội “ Vận chuyển hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: trong vụ án này bị cáo Đào Xuân P thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Chỉ vì một ít lợi nhuận tiền công, mà bị cáo đã tiếp tay cho kẻ khác nhằm vận chuyển pháo nổ mà nhà nước cấm sử dụng, lưu hành. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế, xâm hại đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về sản xuất, kinh doanh pháo nổ gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra, có như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho loại tội này.

[4] Xét về mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị, Hội đồng xét xử xét thấy là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cho bị cáo, HĐXX phân tích, đánh giá như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên năm 2016, bị cáo bị công an thành phố Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép ma túy”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo nhất thời phạm tội, chỉ vị một chút tiền công nhỏ mọn mà bị cáo đã tiếp tay cho kẻ khác để thực hiện tội phạm, sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bản thân bị cáo là người có thành tích xuất sắc trong phong trào an ninh trật tự tại địa phương và được Chủ tịch UBND xã Bố Hạ tặng giấy khen. Bản thân gia đình bị cáo có bố đẻ là ông Đào Bạch Thuần và mẹ đẻ là bà Hà Thị T đã có công trong công cuộc chống mỹ cứu nước và được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba.

Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo thực hiện việc vận chuyển hàng cấm nhằm mục đích lấy tiền công, nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với 05 thùng bìa cát tông, bên trong có chứa 66,4kg pháo, mỗi thùng đều có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Giang, chữ ký cùng tên của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu. Cần tịch thu tiêu hủy.

-  Đối  với  01  chiếc  điện  thoại  di  động  Iphone  màu  ghi,  số  IMEL : 358604071490426. Là phương tiện phạm tội. Cần tịch thu xung quỹ nhà nước.

- Đối với 01 xe ô tô BKS 98A-053.11, nhãn hiệu TOYOTA VIOS ( đã qua sử dụng). ; 01 Giấy phép lái xe mang tên Đào Xuân P ; 01 Giấy đăng kiểm đối với xe ô tô BKS : 98A-053.11 ; 01 Chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với xe Oto BKS 98A-053.11 ; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe ô tô sooss : 20051774 ; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 98A-053.11. Qua xác minh được biết nguồn gốc chiếc xe ô tô bị cáo đi là do nguồn tiền của mẹ đẻ bị cáo là bà Hà Thị T vay thế chấp ngân hàng để mua và cho bị cáo đứng tên vì bà tuổi đã cao để bị cáo chở khách thuê. HĐXX xét thấy, đây là tài sản chung của bà Thành và bị cáo. Số tiền 350.000đồng, là tiền riêng của bị cáo. Cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với Đoàn Anh B và Nguyễn Thị H, Cơ quan điều tra lấy lời khai và tiến hành đối chất với Đào Xuân P nhưng Bích và Hương đều không thừa nhận việc mua, bán hay thuê Phong chở pháo về huyện Hiệp Hòa, do vậy không có căn cứ để xử lý hai đối tượng này.

Đối với người đàn ông theo Phong khai mua pháo của Bích và Hương, Phong không biết tên, tuổi địa chỉ ở đâu nên không có căn cứ xác minh. Kết quả rút list số điện thoại 0342560042 mà Phong liên lạc trong quá trình vận chuyển pháo, xác định chủ thuê bao là ông Phạm Văn Chín, sinh năm 1973 ở xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa. Cơ quan điều tra đã làm việc với ông Chín, ông Chín cung cấp từ trước đến nay không sử dụng số thuê bao trên, cũng không quen biết Bích và Hương. Cơ quan điều tra đã cho Đào Xuân P nhận dạng đối với ông Chín, kết quả Phong xác định người mua pháo không phải là ông Chín nên không có căn cứ xử lý.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đào Xuân P phạm tội “Vận Chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm g khoản 2, khoản 4 Điều 191; điểm s khoản 1 và khoản 2, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Đào Xuân P 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 30 tháng 11 năm 2020. Giao bị cáo cho UBND thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, Bắc Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) xung quỹ nhà nước.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a Khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS 

- Tịch thu tiêu hủy 05 thùng bìa cát tông, bên trong có chứa 66,4kg pháo, mỗi thùng đều có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Giang, chữ ký cùng tên của giám định viên và đại diện cơ quan trưng cầu.

-  Tịch thu xung công nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu ghi, số IMEL : 358604071490426.

- Trả lại cho bị cáo : 01 xe ô tô BKS 98A-053.11, nhãn hiệu TOYOTA VIOS ( đã qua sử dụng). ; 01 Giấy phép lái xe mang tên Đào Xuân P ; 01 Giấy đăng kiểm đối với xe ô tô BKS : 98A-053.11 ; 01 Chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với xe Oto BKS 98A-053.11 ; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe ô tô sooss : 20051774 ; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 98A-053.11 và số tiền 350.000đồng. Nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí. Buộc bị cáo Đào Xuân P phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi  hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

- Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo, người liên quan có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

394
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:89/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về