TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 89/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 552/2020/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Trương Kim T sinh năm 1972 Địa chỉ: ấp Thuận Hòa B, xã Tân T, huyện Đầm D, tỉnh C.
Bị đơn: Anh Phùng Minh C sinh năm 1960 Địa chỉ: khóm 5, phường Hộ P, thị xã G, tỉnh B.
(các đương sự có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là chị Trương Kim T trình bày tại đơn khởi kiện, các lời khai và tại phiên tòa:
Về hôn nhân: Chị và anh Phùng Minh C chung sống từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Chị yêu cầu ly hôn với anh C vì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, chung sống không hạnh phúc.
Về con chung: Thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Trương Kim N sinh ngày 29/8/2009. Chị yêu cầu nhận tiếp tục nuôi con, không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung không yêu cầu Toà án giải quyết.
Bị đơn là anh Phùng Minh C trình bày tại các lời khai: Anh thống nhất với chị T về thời gian chung sống, việc không đăng ký kết hôn và con chung. Về quan hệ vợ chồng anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T. Về con chung đồng ý giao chị T tiếp tục nuôi. Về tài sản và nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, xác định đúng thẩm quyền, đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thực hiện đúng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, việc gửi các văn bản cho Viện kiểm sát đầy đủ, đúng thời hạn. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Từ khi thụ lý đến khi xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 và 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 14, 53, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; áp dụng điểm b, mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ- QH10 và áp dụng điểm a khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14: Không công nhận chị Trương Kim T và anh Phùng Minh C là vợ chồng, về con chung: Giao chị Trương Kim T nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trương Kim N sinh ngày 29/8/2009, không đặt ra giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con do không yêu cầu giải quyết. Về tài sản và nợ chung không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Chị Trương Kim T và anh Phùng Minh C thống nhất chung sống từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Chị Trương Kim T yêu cầu ly hôn do khi sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng, không có sự hòa hợp, không hạnh phúc. Khi có rượu trong người thì anh C có những hành vi đập phá đồ đạc trong nhà, khó khăn với vợ con. Hội đồng xét xử nhận thấy chị T và anh C đã thống nhất việc ly hôn nhưng không thể ghi nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn của các đương sự do cả hai đều xác định chung sống với nhau mà không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình. Do đó việc chung sống như vợ chồng của anh chị không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo quy định tại điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và khi có yêu cầu ly hôn thì Tòa án không xử cho ly hôn hay bác yêu cầu hoặc công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn của các bên mà tuyên bố không công nhận anh chị là vợ chồng theo quy định tại điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội.
[3] Về nuôi con chung: Các bên xác định chung sống có có 01 con chung tên Trương Kim N sinh ngày 29/8/2009. Hai bên tự nguyện thoả thuận và thống nhất giao cho chị Trương Kim T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy anh C và chị T đã thỏa thuận và thống nhất về việc nuôi con chung khi ly hôn, sự thỏa thuận này phù hợp với nguyện vọng của con chung, phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 của luật Hôn nhân và gia đình nên được ghi nhận. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của anh C, chị T; không đặt ra xem xét về việc cấp dưỡng nuôi con do các bên không yêu cầu. Anh Phùng Minh C không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, anh C hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Khi có lý do chính đáng, anh C, chị T có quyền thỏa thuận việc cấp dưỡng nuôi con, phương thức cấp dưỡng nuôi con, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về tài sản và nợ chung: Hai bên xác định không có và không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai là phù hợp với quy định nên HĐXX ghi nhận.
[6] Án phí sơ thẩm: Nguyên đơn là chị Trương Kim T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị T đã dự nộp 300.000 đồng lai thu số 0002163 ngày 25/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai được chuyển thu án phí. Bị đơn Phùng Minh C không phải nộp án phí.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 14, 53, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Trương Kim T và anh Phùng Minh C là vợ chồng.
2/- Về nuôi con chung: Giao chị Trương Kim T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trương Kim N sinh ngày 29/8/2009. Không đặt ra giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con do không yêu cầu. Anh Phùng Minh C không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.
Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Trên cơ sở lợi ích của con chung những người quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn trong trường hợp có căn cứ cho rằng người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3/- Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
4/- Án phí sơ thẩm: Chị Trương Kim T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị T đã dự nộp 300.000 đồng lai thu số 00002163 ngày 25/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai được chuyển thu án phí.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 89/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 89/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về