Bản án 89/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 89/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn T, sinh ngày 12/01/1987, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu C1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ là Đinh Thị N và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/4/2009 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 21 tháng 10 ngày về tội Đánh bạc (đã được xóa án tích). Ngày 01/3/2010 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp bản án ngày 29/4/2009 buộc Nguyễn Văn T phải thi hành hình phạt chung hai bản án là 46 tháng 20 ngày tù (đã được xóa án tích); bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/3/2019 đến nay. Có mặt.

2. Phan Thanh N, sinh ngày 29/7/1988, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K và bà Nguyễn Thị H; bị cáo có chồng là Bùi Chí L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/3/2019 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đinh Thị N, sinh năm 1985, nơi cư trú: Tiểu khu C1, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 22 giờ 10 phút ngày 13/3/2019, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu V, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Phan Thanh N đã phát hiện Phan Thanh N đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu hồng, bên trong đựng 04 viên Methamphetamine Phan Thanh N khai là Methamphetamine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng chung cùng Nguyễn Văn T.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng dẫn giải Phan Thanh N về Công an huyện M để điều tra làm rõ, tạm giữ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu sơn nâu, biển kiểm soát 26F1-0478; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 140.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF vỏ màu xanh đen bên trong điện thoại có 02 sim số thuê bao 0929.460.663 và 0989.871.988.

Mở rộng điều tra, ngày 14/3/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ra lệnh bắt giữ người, lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, tạm giữ của Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1804 vỏ màu đen bên trong điện thoại có 01 sim số thuê bao 0398.275.321.

Ngày 14/3/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M phối hợp với VKSND huyện M và phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng số ma túy của Phan Thanh N, kết quả: 01 gói nilon màu hồng, bên trong đựng 04 viên nén màu hồng thu giữ của Phan Thanh N có khối lượng 0,4 gam, lấy hết 04 viên có khối lượng 0,4 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu “N”. Cơ quan Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 595 ngày 15/03/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu N là ma túy, loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,4 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,4 gam; loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn T và Phan Thanh N khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 13/3/2019 Phan Thanh N đang ở nhà thì nhận được điện thoại từ số thuê bao 0398.275.321 của Nguyễn Văn T gọi điện thoại đến số thuê bao 0989.871.988 của N hỏi N có nhà không, N nói đang ở nhà. Sau đó khoảng 15 phút sau T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm soát 26F1-0478 đi đến nhà N, gặp N, T bảo N đi mua ma túy về sử dụng chung, N nói không có tiền, nghe vậy T đã lấy trong túi quần bên phải ra 400.000đ đưa cho N và bảo N lấy xe máy của T đi mua ma túy, sau đó T vào nhà N chờ. N cầm 400.000đ một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 26F1-0478 của T đi đến bản C, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy. Khi N đang đi trên đường dân sinh của bản C, xã V, huyện V thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, N hỏi và mua được 01 gói nilon màu hồng bên trong đựng 04 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY là Methamphetamine với giá 260.000đ, sau khi mua được Methamphetamine N cất giấu vào trong chiếc giầy đang đi bên phải và điều khiển xe máy đi về. Khi N đi đến khu vực tiểu khu V, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng

Bản cáo trạng số: 83/CT-VKSMC ngày 08 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo Nguyễn Văn T và Phan Thanh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Văn T và Phan Thanh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Nguyễn Văn T và Phan Thanh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2, 3 Điều 35 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn T từ 21 tháng đến 24 tháng tù. Phạt bổ sung đối với bị cáo từ 1.000.000đ đến 2.000.000đ.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phan Thanh N từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Phan Thanh N (SN 1988), bắt ngày 13/03/2019: Bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Văn T, ngày 14/3/2019. KQ: Âm tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn T; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Phan Thanh N, ngày 14/3/2019. KQ: Dương tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Phan Thanh N; 03 số thuê bao 0929.460.663, 0989.871.998, 0398.275.321; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 140.000đ.

Tạm giữ của gia đình bị cáo Nguyễn Văn T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu sơn nâu, biển kiểm soát 26F1-0478, sm: 0018960, 01 gương chiếu hậu bé, hộp xích dưới không có, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong; để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF vỏ màu xanh đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1804 vỏ màu đen; tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 140.000đ.

3. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà các bị cáo Nguyễn Văn T và Phan Thanh N thừa nhận: Hồi 22 giờ 10 phút ngày 13/3/2018 Nguyễn Văn T và Phan Thanh N đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,4 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T và Phan Thanh N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt các bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo.

Việc cách ly các bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để các bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Phân hóa vai trò phạm tội của các bị cáo thấy rằng, bị cáo Nguyễn Văn T là người khởi xướng, cung cấp tiền và xe máy để bị cáo Phan Thanh N đi mua ma túy do đó giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Phan Thanh N là người trực tiếp đi mua ma túy, do đó là đồng phạm với vai trò là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo Phan Thanh N đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy. Riêng bị cáo Nguyễn Văn T, ngày 29/4/2009 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 21 tháng 10 ngày về tội Đánh bạc, đã được xóa án tích. Ngày 01/3/2010 Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp bản án ngày 29/4/2009 buộc Nguyễn Văn T phải thi hành hình phạt chung hai bản án là 46 tháng 20 ngày tù, đã được xóa án tích. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo Nguyễn Văn T, quá trình điều tra đã thu giữ của gia đình bị cáo 01 xe máy, 01 điện thoại di động do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung, phạt bị cáo một khoản tiền nhất định là phù hợp.

Đối với bị cáo Phan Thanh N, quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Phan Thanh N (SN 1988), bắt ngày 13/03/2019: Bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Văn T, ngày 14/3/2019. KQ: Âm tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn T; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Phan Thanh N, ngày 14/3/2019. KQ: Dương tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Phan Thanh N; 03 số thuê bao 0929.460.663, 0989.871.998, 0398.275.321; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 140.000đ; Là vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu sơn nâu, biển kiểm soát 26F1-0478, sm: 0018960, 01 gương chiếu hậu bé, hộp xích dưới không có, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong; Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay xác định là tài sản chung của vợ, chồng Nguyễn Văn T và Đinh Thị N. Việc bị cáo Nguyễn Văn T sử dụng xe dùng làm phương tiện thực hiện phạm tội chị Đinh Thị N không biết và không liên quan. Do đó cần tuyên tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF vỏ màu xanh đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1804 vỏ màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng. tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 140.000đ. Là phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm. Do đó cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[5] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo N như bị cáo N khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

[7] Thời hạn tạm giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T và Phan Thanh N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2, 3 Điều 35 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 14/3/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo là 1.000.000đ (Một triệu đồng).

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Thanh N 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 14/3/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Phan Thanh N (SN 1988), bắt ngày 13/03/2019: Bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Văn T, ngày 14/3/2019. KQ: Âm tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn T; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Phan Thanh N, ngày 14/3/2019. KQ: Dương tính. Bên trong đựng test thử ma túy của Phan Thanh N; 03 số thuê bao 0929.460.663, 0989.871.998, 0398.275.321; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 140.000đ.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF vỏ màu xanh đen (điện thoại cũ đã qua sử dụng) 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO 1804 vỏ màu đen (điện thoại cũ đã qua sử dụng); tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn T và vợ bị cáo là Đinh Thị N: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu sơn nâu, biển kiểm soát 26F1-0478, sm: 0018960, 01 gương chiếu hậu bé, hộp xích dưới không có, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong. Để đảm bảo cho việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn T và Phan Thanh N phải chịu mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/5/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về