Bản án 89/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V – TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 89/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 241/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2019, về tranh chấp “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2019/QĐXX-ST ngày 06 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1989 (Có mặt)

Địa chỉ: ấp T, xã Tr, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Anh Nguyễn C, sinh năm 1981 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Quang Diệu, xã Tr, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 30/5/2019 nguyên đơn chị Đặng Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn C được sự mai mối tự nguyện tìm hiểu nhau rồi tiến tới hôn nhân được sự chứng kiến của cha mẹ hai bên có tổ chức lễ cưới vào tháng 11 năm 2010, nhưng không có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Sau ngày cưới chị và anh C sống ở ấp Quang Diệu, xã Tr huyện V, tỉnh Vĩnh Long,Vợ chồng sống hạnh phúc được đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân do tính tình chị không hợp nhau bất đồng quan điểm với mẹ chồng nên trong cách cư xử không được hòa nhã vui vẻ chồng không bênh vực không bảo vệ cho chị mà nghe theo mẹ chồng, nên tình cảm vợ chồng không hạnh phúc, chị đã về cha mẹ ruột của chị sống từ cuối năm 2018 đến nay.

Nay chị cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn C.

- Về con chung: Chị và anh C có hai con chung tên Nguyễn P sinh ngày 08/9/2011 và cháu Nguyễn Ph, sinh ngày17/5/2013. Hiện nay, cháu P đang sống với anh C còn cháu Ph đang sống với chị. Sau khi ly hôn chị đồng ý để cháu P cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Ph và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn C đã được tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng anh C không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, côngkhai chứng cứ và hòa giải .

Vào ngày 12/9/2019 anh C có gửi đến Tòa một đơn xin vắng mặt không tham gia tố tụng tại tòa, và một bản khai ý kiến đề ngày12/9/2019 anh C nêu ý kiến như sau:

- Về hôn nhân: Anh đồng ý ly hôn với chị Đặng Thị T

- Về con chung: Anh xác nhận anh và chị T có hai người con chung tên Nguyễn Phước Lợi sinh ngày 08/9/2011 và cháu Nguyễn Phước Giàu, sinh ngày 17/5/2013. Hiện nay, cháu Lợi đang sống với anh còn cháu Giàu đang sống với chị. Sau khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Lợi chị T không cấp dưỡng nuôi con, anh đồng ý để cháu Giàu cho chị T nuôi dưỡng anh không cấpdưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung phải thu phải trả của vợ chồng: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Đặng Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Long giải quyết việc hôn nhân giữa chị và anh Nguyễn C. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho bị đơn Nguyễn C và anh C cũng có đơn xin không tham gia tố tụng tại Tòa vì anh bận công việc. Do đó, căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn C

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: quan hệ hôn nhân giữa chị Đặng Thị T và anh Nguyễn C là quan hệ hôn nhân không hợp pháp do chị T và Anh C không có đăng ký kết hôn. Anh chị sống với nhau từ năm 2010 và sống hạnh phúc đến 2018 thì phát sinh mâu thuẩn, theo chị là chị thường hay bất đồng quan điểm với mẹ chồng nhưng anh C không bên vực chị nên từ đó vợ chồng mâu thuẫn không còn hạnh phúc chị đã về sống bên cha mẹ ruột từ tháng 4 năm 2018 đến nay, Hội đồng xét xử thấy tình cảm giữa chị T và anh C không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị T xin ly hôn với anh Chiên, anh C cũng đồng ý ly hôn với chị T, nhưng do anh chị không đăng ký kết hôn nên không có giá trị pháp lý không công nhận chị T và anh C là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị T và anh C có hai con chung tên Nguyễn Phước Lợi sinh ngày 08/9/2011 và cháu Nguyễn Phước Giàu, sinh ngày 17/5/2013. Hiện nay cháu Lợi đang sống với anh C còn cháu Giàu đang sống với chị T. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Giàu và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi cháu Giàu, Chị đồng ý để cháu Lợi cho anh C tiếp tục nuôi dưỡng chị không cấp dưỡng nuôi cháu Lợi và trong bản khai ý kiến ngày 23/7/2019 của cháu Nguyễn Phước Lợi sau khi cha mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng được sống với cha, tại bản khai ý kiến ngày 12/9/2019 anh C cũng thống nhất theo ý của chị T nên Hội đồng xét xử ghi nhận .

Về tài sản chung: Chị Đặng Thị T và anh Nguyễn C Thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên, miễn xét.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Đặng Thị T và anh Nguyễn C Thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên, miễn xét.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đặng Thị T phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 9, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1.Về hôn nhân: Không công nhận chị Đặng Thị T và anh Nguyễn C là vợ chồng.

2.Về con chung: Chị T và anh C có hai con chung tên Nguyễn P, sinh ngày 08/9/2011 và cháu Nguyễn Ph,sinh ngày 17/5/2013.Giao cháu Nguyễn P cho anh C nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi cháu P.Giao cháu Nguyễn Ph cho chị T nuôi dưỡng, anh C không phải cấp dưỡng nuôi cháu Ph.

3.Về tài sản chung: Chị Đặng Thị T và anh Nguyễn C cùng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

4.Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Đặng Thị T và anh Nguyễn C cùng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

5.Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đặng Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Số tiền trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị T đã nộp theo biên lai thu số N0 0009880 ngày 30/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Chị Đặng Thị T đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6.Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:89/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về