Bản án 89/2018/HS-ST ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 89/2018/HS-ST NGÀY 20/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 92/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1987 tại huyện V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tiểu khu 14, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Th, sinh năm 1955 và bà Lâm Thị H, sinh năm 1957; bị cáo có vợ là Đinh Thị H, sinh năm 1987 (đã ly hôn) và 01 con, sinh năm 2008; tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 25/3/2015, Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 18 tháng tù về tội

Trộm cắp tài sản; chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/5/2018, chấp hành án phí ngày 25/3/2015.

Bị bắt tạm giữ ngày 31/5/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Vũ Văn Th, sinh năm 1967; Trú tại: Tiểu khu 13, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

- Anh Đặng Quốc Ch, sinh năm 1993; Trú tại: Bản S, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 31/5/2018, tổ công tác Công an huyện V đang làm nhiệm vụ tại bản S, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La, tiến hành kiểm tra đối với Vũ Văn Th và Vũ Văn T đang đi trên xe máy do Vũ Văn Th điều khiển. Qua kiểm tra, phát hiện Vũ Văn T đang cất giấu trong túi áo khoác bên phải 01 gói nilon màu đen tiếp theo là lớp nilon màu trắng bên trong đựng chất bột màu trắng T khai nhận đó là heroine của T và một người đàn ông tên C, trú tại tiểu khu 11, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La góp tiền mua để sử dụng.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nilon màu đen tiếp theo là lớp nilon màu trắng bên trong đựng chất bột màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động NOKIA, loại 110I .

Cùng ngày, tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Văn T được 0,20 gam, lấy 0,04 gam làm mẫu giám định ký hiệu T, mẫu ký hiệu T được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy, khối lượng ma túy.

Tại kết luận giám định số: 673 ngày 05/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu T là chất ma túy; loại chất heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,04 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,20 gam, loại chất heroine”.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, bị cáo mua ma túy và cất giấu ma túy mục đích là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo mắc nghiện ma túy.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 23/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 01 (một) năm tù đến đến 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Vũ Văn T.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,16 gam heroine còn lại cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Văn T, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Văn Th, tạm giữ 01 điện thoại NOKIA 110I của Vũ Văn T để đảm bảo thi hành án. 

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 673 ngày 05/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người chứng kiến anh Vũ Văn Th, anh Đặng Quốc Ch, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 31/5/2018, bị cáo Vũ Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,20 gam heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định.

[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng, bản thân đã từng bị kết án tuy được xóa án tích nhưng không chịu hoàn lương nay tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo Vũ Văn T đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Vũ Văn T còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với Vũ Văn Th là đối nghiện ma túy đã cho Vũ Văn T đi nhờ xe máy, việc T tàng trữ ma túy Th không biết và không liên quan nên ngày 01/08/2018 Công an huyện V đã ra quết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Vũ Văn Th là có căn cứ.

Đối với Ngần Văn C, sinh năm 1984 trú tại tiểu khu 11, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La Cơ quan công an huyện V đã điều tra xác minh nhưng C là đối tượng nghiện ma túy, thường xuyên đi lang thang, không có mặt tại địa phương do đó cơ quan điều tra chưa có căn cứ để làm rõ và xử lý.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Vũ Văn T mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại bản C, xã L, huyện V, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý người bán ma túy cho Vũ Văn T.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,16 gam heroine còn lại cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Văn T; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Văn Th là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại NOKIA 110I T dùng làm phương tiện liên lạc đi mua ma túy nên cần tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015:

1.Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng 0,16 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Văn T; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Văn Th.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01chiếc điện thoại NOKIA 110I của Vũ Văn T.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2018/HS-ST ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:89/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về