TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 88/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 63/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021về việc tranh chấp Hôn nhân và gia đình.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/5/2021; quyết định hoãn phiên tòa số 66/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21/6/2021 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn:Anh Lê Xuân T, sinh năm:1987 (vắng mặt). Địa chỉ: Xóm 9, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình.
2.Bị đơn: Chị Đào Thị T, sinh năm:1979 (vắng mặt).
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (Hiện đang lao động tại nước ngoài không có địa chỉ).
Địa chỉ cuối cùng của chị Đào Thị T tại Việt Nam: Thôn K, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai ngày 12/4/2021,nguyên đơn anh Lê Xuân T trình bày:
Anh và chị Đào Thị T có được tự do tìm trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 16/5/2012 tại UBND xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình. Sau một năm chung sống cả hai vợ chồng đều nhận cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, vợ chồng thường xuyên tranh cãi lẫn nhau và chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân với nhau mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải để tạo điều kiện để vợ chồng chung sống với nhau nhưng không đạt được kết quả và chị T đã đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Nay, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đào Thị T.
-Về con chung: Anh chị không có con chung, nên không đề nghị Toà án giải quyết.
-Về tài sản, công nợ: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Ngoài ra anh T còn trình bày: Anh đã lâu không liên lạc được với chị T nên anh không biết được địa chỉ của chị T ở đâu nên không cung cấp cho Tòa án được. Anh chỉ cung cấp địa chỉ cuối cùng của chị T ở Việt Nam là tại Thôn K, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Anh đề nghị Toà án xác minh địa chỉ của chị T thông qua bố mẹ chị T là ông Đào Xuân C và bà Nguyễn Thị H có địa chỉ tại thôn K, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang cung cấp thông tin và địa chỉ cụ thể của chị T ở nước ngoài cho Toà án.
Do tính chất công việc nên anh không thể tham gia được các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa anh và chị T được, nên anh đề nghị Tòa án cho anh được vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh và chị Đào Thị T.
Bị đơn chị Đào Thị T hiện đang lao động tại nước ngoài không có bản tự khai.
Ngày 21/4/2021 và ngày 06/5/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã lập biên bản làm việc với ông Đào Xuân C là bố đẻ của chị Đào Thị T để giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu ông C thông báo cho chị T biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Lê Xuân T và chị Đào Thị T; yêu cầu chị T viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; yêu cầu ông C cung cấp địa chỉ cụ thể của chị T ở nước ngoài. Tuy nhiên, qua hai lần làm việc ông C vẫn giữ nguyên quan điểm là chị T ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình nhưng ông không cung cấp địa chỉ cụ thể của chị T ở nước ngoài cho Tòa án, vì đây là việc cá nhân của chị T đồng thời ông cũng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị T biết để chị T gửi lời khai về. Kể từ đó đến nay Tòa án cũng không nhận được bất kỳ lời khai nào của chị T gửi về.
Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Xuân T vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị Đào Thị T vắng mặt không có lý do.
Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, thông qua đơn khởi kiện, bản tự khai của anh T; Biên bản làm việc với ông Chi là bố đẻ của chị T là và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu:
- Về việc chấp hành pháp luật của Thảm phán, Hội đồng xét xử, thư ký kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đương sự;
- Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Đối với nguyên đơn anh Lê Xuân T có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chị Đào Thị T không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài, Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với chị Đào Thị T. Căn cứ vào quy định của pháp luật xét xử vắng mặt chị Đào Thị T là đúng.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 51, 53, 56 và khoản 2 điều 123, điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; khoản 3 điều 35; điểm c khoản 1 điều 37; khoản 4 điều 147; khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228; 238; điều 271; điều 273; khoản 2 điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Xuân T.
Cho anh Lê Xuân T được ly hôn chị Đào Thị T.
Anh Lê Xuân T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Xuân T là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Lê Xuân T.
Đối với bị đơn chị Đào Thị T vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với bố đẻ của chị T là ông Đào Xuân C để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu ông C thông báo cho chị T biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa anh Lê Xuân T và chị Đào Thị T, yêu cầu ông C cung cấp địa chỉ cụ thể của chị T ở nước ngoài. Ông Đào Xuân C trình bày: Chị T vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà ông C vẫn không cung cấp địa chỉ, tin tức của chị T cho Tòa án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị T biết. Nhận thấy đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn chị Đào Thị T.
[2].Về thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh Lê Xuân T là nguyên đơn có đơn xin ly hôn chị Đào Thị T, chị T hiện đang lao động tại nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ (theo Công văn số 10490/QLXNC-P5 về việc cung cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 28/4/2021 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an), thì chị T xuất nhập cảnh 09 lần, lần xuất cảnh gần nhất là ngày 09/12/2020 hiện chưa có thông tin nhập cảnh trở lại, địa chỉ cuối cùng của chị T ở Việt Nam là: Thôn K, xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Như vậy, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Anh Lê Xuân T và chị Đào Thị T kết hôn ngày 16/5/2012, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình.
Theo anh T trình bày: Sau một năm chung sống cả hai vợ chồng đều nhận thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, vợ chồng thường xuyên tranh cãi lẫn nhau và chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng đã sống ly thân với nhau, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải để tạo điều kiện để vợ chồng chung sống với nhau nhưng không đạt được kết quả, chị T đã đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Nay, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đào Thị T.
Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Lê Xuân T. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn chung sống với nhau được một thời gian ngắn anh T đã nhận thấy cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng không hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, được hai bên gia đình hòa giải nhưng không đạt được kết quả như mong muốn dẫn đến việc chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và đi lao động xuất khẩu tại nước ngoài. Vợ chồng đã sống ly thân với nhau, không quan tâm liên lạc gì với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh T và chị T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Xuân T.
Xử cho anh Lê Xuân T được ly hôn với chị Đào Thị T.
[4]. Về con chung: Anh T và chị T không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5]. Về tài sản, công nợ: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6].Về án phí:Anh Lê Xuân T phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:
1.Về hôn nhân: Anh Lê Xuân T được ly hôn chị Đào Thị T.
2.Về án phí:Anh Lê Xuân T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000025 ngày 19/4/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận anh Lê Xuân T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
3.Về quyền kháng cáo bản án: Anh Lê Xuân T vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.
Chị Đào Thị T hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bản án 88/2021/HNGĐ-ST ngày 08/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 88/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về