Bản án 88/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 88/2019/HSST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2019/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần An N (tên gọi khác: Không); sinh ngày 01 tháng 9 năm 1976 tại huyện D, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 2, xã DH, huyện D, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Ngọc L, sinh năm1935 và con bà: Cao Thị H (đã chết); vợ: Lê Thị L, sinh năm 1978; con: 03 con,con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 16/5/2019, Trần An N gọi điện thoại cho Ngô Công A, sinh năm 1979 trú tại Thôn 5, xã DK, huyện D, tỉnh Nghệ An hỏi “ A có ma túy không bán cho em ít”. A trả lời „có” thì N nói “Bán cho 10 gói ma túy”. A đồng ý rồi A và N thốngnhất giá với nhau là mỗi gói ma túy giá 150.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, N nhận được điện thoại của A gọi đến hỏi “ anh đang ở mô”, N trả lời “Đang ở ngoài đồng”, khoảng 30 phút sau, N thấy A đi xe máy một mình đến và nói “ Có đây rồi”, đồng thời lấy ra 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 09 gói ma túy có đặc điểm giống nhau đưa cho N. N cầm lấy số ma túy đó bỏ túi quần phía sau bên phải đang mặc trên người rồi lấy ra 1.350.000 đồng đưa cho A, rồi N đi về nhà.

Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, N đem theo số ma túy đó đi ra đồng để sử dụng, khi đi đến đoạn đường liên thôn thuộc xóm 2, xã DH, huyện D thì bị tổ công tác Công an huyện D phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi quần phía sau bên phải của Trần An N 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa 09 gói có đặc điểm giống nhau, bên ngoài được quấn bằng băng keo màu đen, bên trong gói bằng mảnh giấy trắng kẻ dòng, bên trong mỗi gói có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy.

Căn cứ và lời khai của Trần An N, đến 17 giờ 00 phút ngày 16/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Ngô Công A trú tại thôn 5, xã DK, huyện D, tỉnh Nghệ An. Đến 18 giờ cùng ngày khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần An N tại xóm 2, xã DH, huyện D, tỉnh Nghệ An. Quá trình khám xét Cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật gì liên quan vụ án này.

Theo biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 16/5/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D xác định tổng khối lượng mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Trần An N có khối lượng 0,6 gam.

Kết luận giám định số 768/KL-PC54 (MT) ngày 21/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Trần An N gửi tới giám định là ma túy (Heroin), có khối lượng 0,6 gam.

Bản cáo trạng số 98/CT-VKSDC ngày 24/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo: Trần An N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c, khoản 1 Điều 249;điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của Trần An N. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định củaBộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ýkiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, Trần An N khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy nên vào khoảng 12 giờ 45 phút ngày 16/5/2019 tại đường liên thôn thuộc xóm 2, xã DH, huyện D, tỉnh Nghệ An. Trần An N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,6 gam ma túy (Heroin) để sử dụng thì bị Công an huyện D kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần An N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích mua ma túy về để sử dụng. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bố mẹ đẻ của bị cáo là người có công với cách mạng được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng”, do dó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Trong vụ án này người đàn ông tên Ngô Công A là người bán ma túy cho Trần An N. Nhưng sau khi Trần An N bị bắt, Ngô Công A đã bỏ trốn khỏi địa phương kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo vật chứng gồm: 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước.

[6] Về án phí hình sự: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Trần An N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần An N 18 (mười tám) tháng tù. Về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/5/2019.

Vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự và căn cứ điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật chứng vụ án. Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng. Toàn bộ vật chứng hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo phiếu nhập kho số NK00094 ngày 26 tháng 6 năm 2019.

Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Trần An N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:88/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về