Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 05/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A 

BẢN ÁN 88/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 238/2019/TLST-HNGĐ ngày 04/6/2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 120/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16/8/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Phạm Thị T, sinh năm 1984 (có mặt). Địa chỉ: ấp S, xã V, huyện T, tỉnh A.

2. Bị đơn: ông Trần Phương V, sinh năm 1980 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp S, xã V, huyện T, tỉnh A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 28/6/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày: bà T với ông V chung sống với nhau vào năm 2001, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh A vào ngày 06/9/2004. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và sinh được 02 con chung tên Trần Hiếu D, sinh ngày 19/6/2004 và Trần Ngọc Phương V, sinh ngày 26/6/2008. Đến năm 2016, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông V không chung thủy với bà T, ghen tuông vô cớ, đập phá đồ đạc trong gia đình, có những lời lẽ xúc phạm bà T. Mặc dù bà T có khuyên ngăn nhưng ông V không thay đổi. Do muốn duy trì quan hệ hôn nhân để lo cho gia đình nên bà T cố gắng chịu đựng trong suốt thời gian dài. Tuy nhiên, càng lúc thì ông V càng xúc phạm nhiều hơn nên bà T và ông V đã sống ly thân từ tháng 05 năm 2019 cho đến nay. Quá trình chung sống, bà T với ông V có tạo lập được một số tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nay mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể duy trì hôn nhân nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân, bà Phạm Thị T yêu cầu ly hôn với ông Trần Phương V.

- Về quan hệ con chung, có 02 con chung tên Trần Hiếu D và Trần Ngọc Phương V. Sau khi ly hôn, bà T đồng ý giao 02 con cho ông V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà T không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung, không có.

Tại Tờ tường trình ngày 12/6/2019 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Phương V trình bày: ông Vvới bà Phạm Thị T chung sống với nhau vào năm 2001, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh Anăm 2004. Thời gian chung sống vợ chồng sinh được 02 con chung tên Trần Hiếu D, sinh ngày 19/6/2004 và Trần Ngọc Phương V, sinh ngày 26/6/2008. Hiện tại hai con đang chung sống với ông V và được học hành ổn định. Tuy nhiên, đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà T đi làm thuê nhưng làm công việc gì thì bà T không cho ông V biết. Do vậy, ông V không đồng ý cho bà T đi làm. Từ đó vợ chồng có cãi vã nhau. Đến tháng 5 năm 2019 thì bà T dọn đồ về nhà chị ruột sinh sống cho đến nay.

Quá trình chung sống, ông V với bà T có tạo lập được một số tài sản chung nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay bà T yêu cầu ly hôn thì ông V có ý kiến như sau:

- Về hôn nhân, do còn thương vợ nên ông V không đồng ý ly hôn với bà T.

- Về con chung, mặc dù ông V không đồng ý ly hôn nhưng nếu bà T kiên quyết ly hôn thì ông V yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con, không yêu cầu bà T cấp dưỡng.

- Về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung, không có.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến việc giải quyết vụ án: Thẩm phán xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết. Quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, riêng bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 1 và lần thứ 2, không có lý do chính đáng nên đã từ bỏ quyền của mình. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: qua xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về hôn nhân: bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Trần Phương V;

- Về con chung: giao cháu Trần Hiếu D và Trần Ngọc Phương V cho ông V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà T không cấp dưỡng nuôi con;

- Về tài sản chung, nợ chung: không đặt ra xem xét;

- Về án phí: bà T chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Trần Phương V đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp S, xã V, huyện T, tỉnh A, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Trần Phương V đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, các lần triệu tập, ông V đều vắng mặt. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông V.

[3] Về hôn nhân: bà Phạm Thị T với ông Trần Phương V chung sống với nhau từ năm 2001. Tuy nhiên, đến năm 2004 ông Vvà bà Tmới làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Vọng Đông, huyện T, tỉnh Acấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 22, quyển số 01, ngày 06/9/2004. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của ông V, bà Tphù hợp với quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3.1] Xét, yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị T thấy rằng, bà T với ông V chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, bà Tcho rằng ông V ghen tuông vô cớ, thường đập phá đồ đạc trong gia đình và có những lời lẽ xúc phạm bà T, từ đó không còn tình cảm vợ chồng và đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2019 cho đến nay. Ông Vthì cho rằng, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bà Tđi làm thuê nhưng bà không cho ông biết bà làm công việc gì nên ông không đồng ý cho bà T đi làm. Từ đó vợ chồng có cãi vã nhau và đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2019 cho đến nay.

[3.2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân của bà T và ông V. Qua xác minh được chính quyền địa phương cung cấp như sau: thời gian gần đây, ông V và bà T có phát sinh mâu thuẫn. Bà T có báo chính quyền địa phương để can thiệp và trong ngày hôm đó bà T về nhà cha mẹ ruột sống đến nay. Hiện hai con đang sống chung với ông V và được học hành ổn định.

[3.3] Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án tiến hành hòa giải nhằm tạo điều kiện cho bà T và ông V đoàn tụ để xây dựng hạnh phúc gia đình, đồng thời chăm sóc và giáo dục con chung. Tuy nhiên, bà T và ông V vẫn không đoàn tụ được. Tại phiên tòa, bà T vẫn nhất quyết ly hôn với ông V. Điều này thể hiện tình trạng hôn nhân giữa bà T với ông V mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị T.

[4] Về quan hệ con chung: bà T và ông V có hai con chung tên Trần Hiếu D, sinh ngày 19/6/2004 và Trần Ngọc Phương V, sinh ngày 26/6/2008. Ông V yêu cầu được nuôi hai con, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Bà T đồng ý giao hai con cho ông V tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu D và cháy V đang sống chung với ông V và được học hành ổn định. Đồng thời, tại biên bản ghi nguyện vọng của cháu D và cháu V cùng ngày 10/6/2019 thì các cháu muốn được sống với ba. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của hai cháu, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của ông V; giao cháu D và cháu V cho ông V tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông V không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: bà T và ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về nợ chung: bà T và ông V xác định không có nợ chung.

[7] Về án phí: do bà Phạm Thị T yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 9, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T.

- Về quan hệ hôn nhân: bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Trần Phương V.

Giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 01, ngày 06/9/2004 của Ủy ban nhân dân xã V, huyện T, tỉnh A không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: bà Tvà ông Vcó 02 con chung tên Trần Hiếu D, sinh ngày 19/6/2004 và Trần Ngọc Phương V, sinh ngày 26/6/2008.

+ Giao cháu Trần Hiếu D và cháu Trần Ngọc Phương V cho ông Trần Phương V tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (cháu D và cháu V đang sống chung với ông V). Bà Phạm Thị T không cấp dưỡng nuôi con.

+ Ông Trần Phương V cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Phạm Thị T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: ghi nhận bà Phạm Thị T và ông Trần Phương V xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà T và ông V vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000226 ngày 04/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HNGĐ-ST ngày 05/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:88/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về