TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 87/2021/DS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 31 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2021/TLST-DS ngày 19 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2021/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ. Địa chỉ: Số x, đường P, quận P1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Huỳnh Thúy D – chức vụ: Nhân viên Phát triển kinh doanh – Chi nhánh C – văn bản ủy quyền ngày 19/01/2021 (có mặt).
- Bị đơn: Chị Trương Cẩm T, sinh năm 1987; cư trú tại: Ấp T2, xã T1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Hội Liên hiệp phụ nữ xã T1; địa chỉ: Ấp T2, xã T1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
2. Bà Cao Thị P, sinh năm 1965; cư trú tại: Ấp T2, xã T1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh Cà Mau (sau đây gọi tắt là Ngân hàng), lời trình bày tại phiên tòa của chị Huỳnh Thúy D, thể hiện:
Chị Trương Cẩm T mở khoản cấp tín dụng trả góp dành cho cán bộ nhân viên hành chính sự nghiệp tại Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh C với hạn mức cấp tín dụng là 20.000.000 đồng, lãi suất 12%/năm, thời hạn vay 06 tháng, với mục đích tiêu dùng. Hình thức bảo đảm nợ vay: Tín chấp không tài sản nhưng có sự bảo lãnh của bà Cao Thị P (là mẹ của chị T) và Hội Liên hiệp phụ nữ xã T1, huyện Đ. Quá trình vay, từ ngày 20/12/2019 đến ngày 19/6/2020 chị T trả được tổng số tiền vốn, lãi là 6.200.000 đồng và không thực hiện trả vốn, lãi theo thỏa thuận, tính đến ngày 31/5/2021 chị T còn thiếu tổng số tiền 18.721.000 đồng (vốn 14.450.000 đồng, lãi 1.670.000 đồng và lãi quá hạn 2.601.000 đồng). Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu chị T trả số tiền 18.721.000 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 01/6/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.
* Đối với chị Trương Cẩm T, bà Cao Thị P và Hội Liên hiệp phụ nữ xã T1: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nhưng các đương sự này không có ý kiến gì và không tham gia hòa giải và xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Chị Trương Cẩm T, bà Cao Thị P và Hội Liên hiệp phụ nữ xã T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự này là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
[2] Khi nộp đơn khởi kiện, Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh C (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) cung cấp Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 00879146 – 0167834001T19017 ngày 19/12/2019, kèm theo đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn của chị T, có bà P (mẹ của chị T) ký bảo lãnh và Hội Liên hiệp phụ nữ xã T1 ký xác nhận (kèm theo bản sao Giấy chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu gia đình của chị T) thể hiện chị T nhận vay số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), với lãi suất là 12%/năm, lãi suất quá hạn 150% so với lãi suất trong hạn, thời hạn cho vay từ ngày 20/12/2019 đến 19/6/2020; quá trình giải quyết vụ án, chị T, bà P và Hội liên hiệp phụ nữ xã T1 không phản đối về nội dung Ngân hàng khởi kiện. Do đó, đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét đề nghị trả vốn, lãi đến ngày xét xử sơ thẩm của Ngân hàng thấy rằng: Theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 00879146 – 0167834001T19017 ngày 19/12/2019, kèm theo đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn có nội dung thỏa thuận phù hợp với các điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự và điểm d khoản 3 Điều 98 Luật Tổ chức tín dụng. Quá trình vay, từ ngày 20/12/2019 đến 19/6/2020 chị T trả được tổng số tiền vốn, lãi là 6.200.000 đồng và không thực hiện trả vốn, lãi theo thỏa thuận và tính đến ngày 31/5/2021 ch ị T còn thiếu tổng số tiền 18.721.000 đồng (vốn 14.450.000 đồng, lãi 1.670.000 đồng và lãi quá hạn 2.601.000 đồng). Do đó, Ngân hàng xác định chỉ khởi kiện yêu cầu chị T trả số tiền 18.721.000 đồng mà không yêu cầu nghĩa vụ bảo lãnh của bà P (mẹ của chị T) và Hội Liên hiệp phụ nữ xã T1 phải liên đới về số nợ của chị T; đây là quyền định đoạt của Ngân hàng, không trái quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu trả tiền lãi phát sinh từ ngày 01/6/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng của Ngân hàng, thấy rằng:
Theo Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thể hiện: “…kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”. Do đó, yêu cầu này của Ngân hàng là có căn cứ nên được chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị T phải chịu số tiền là 936.050 đồng (18.721.000 đồng x 5%).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 463, 466 và 468 của Bộ luật Dân sự; điểm d khoản 3 Điều 98 Luật Tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ. Buộc chị Trương Cẩm T phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền vốn và lãi đến ngày 31/5/2021 là 18.721.000 đồng (mười tám triệu bảy trăm hai mươi mốt nghìn đồng). Trong đó, nợ gốc 14.450.000 đồng, lãi 1.670.000 đồng và lãi quá hạn 2.601.000 đồng.
Ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn mà khách hàng vay phải thanh toán cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng tính đến ngày 31/5/2021, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Chị T phải chịu 936.050 đồng (chín trăm ba mươi sáu nghìn không trăm năm mươi đồng) (chưa nộp).
- Ngân hàng TMCP Đông Á không phải chịu. Hoàn trả lại cho Ngân hàng số tiền đã nộp tạm ứng là 476.000 đồng (bốn trăm bảy mươi sáu nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011931 ngày 19/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi.
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 87/2021/DS-ST ngày 31/05/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 87/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về