Bản án 87/2017/HS-ST ngày 26/12/2017 về tội giao cấu với trẻ em

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 87/2017/HS-ST NGÀY 26/12/2017 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Ngày 26/12/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 79/2017/HS-ST ngày 08/11/2017 đối với bị cáo: Nguyễn Trung C (Tên gọi khác: N), sinh năm 1995 tại Kon Tum; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Số nhà A đường L, phường Q, thành phố K, tỉnh Kon Tum; Ngh nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thành T và bà Trịnh Thị Thu H; Gia đình có 08 anh em, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 2010, bị cáo là con thứ 3;

Tiền án: Ngày 11/5/2015 bị TAND thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xử phạt 12 tháng tù về  tội "Trộm cắp tài sản", đã chấp hành xong hành phạt ngày 26/01/2016; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 28/4/2011 bị UBND thành phố Kon Tum quyết định đưa vào trường giáo dưỡng 2 năm về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 25/11/2011 bị TAND huyện Xuân Mộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội "Cướp tài sản", với tình tiết tăng nặng "Tái phạm", đã chấp hành xong hình phạt ngày 09/6/2014.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2017 đến nay, có mặt.

- Người bị hại: Cháu Đặng Thị T, sinh ngày 09/10/2002, trú tại: Thôn A, xã Đ, huyện K, tỉnh Kon Tum, có mặt.

- Người đại diện phợp pháp cho cháu T: Anh Đặng Văn T, trú tại: Thôn A, xã Đ, huyện K, tỉnh Kon Tum, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hà Minh A, trú tại: Thôn a, xã Đ, huyện K, tỉnh Kon Tum, vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng đầu tháng 5/2017 cháu Nông Thị Yến Nh, sinh 16/4/2003, trú tại thôn A, xã Đ, huyện K, tỉnh Kon Tum quen biết với Nguyễn Mai Xuân H (chưa rõ nhân thân lai lịch) qua mạng xã hội FaceBook. Đến ngày 16/5/2017 H rủ bị cáo Nguyễn Trung C lên huyện Kon Rẫy dự sinh nhật của cháu Nh, tại đây bị cáo Cường làm quen với cháu Đặng Thị T, sinh ngày 09/10/2002 (cháu T bạn của cháu Nh). C và cháu T lấy số điện thoại của nhau, sau đó thường xuyên gọi điện và nhắn tin cho nhau, cháu Th nhận làm bạn gái của C, dẫn đến phát sinh tình cảm với nhau và cháu T có mời C lên nhà chơi. Khoảng 10 giờ trưa ngày 26/5/2017 C và H lên nhà cháu Nh chơi và có cháu T ở đó. Sau đó cháu Nh và cháu T rủ bị cáo C và H xuống thành phố Ko chơi, cháu T mượn xe máy BKS 76D1-06346 của anh Hà Minh A rồi đưa cho C và H đi trước xuống K, còn Nh và T bắt xe taxi xuống sau. Khi xuống đến thành phố Kon Tum thì không đủ tiền trả xe taxi, nên cháu T bảo bị cáo C mang xe đi cắm (cầm cố) lấy tiền. C đem xe đến ngã ba đường T, thành phố K cắm cho một người có tên M (chưa rõ nhân thân lai lịch) được 03 triệu đồng, C lấy trước 01 triệu về đưa cho cháu T để trả tiền taxi, sau đó tất cả cùng đi chơi trong thành phố Kon Tum, đến chi u cùng ngày vào nhà nghỉ R ở số A đường T, phường T, thành phố K, tỉnh Kon Tum cùng thuê chung một phòng số 24 nghỉ, trong phòng có 02 giường, H và cháu Nh ngủ chung một giường phía gần cửa; bị cáo Cường và cháu Thương ngủ chung một giường bên trong. Khi lên giường để ngủ thì C và cháu T cùng đắp kín chăn, bật tivi, nhưng tắt điện chiếu sáng trong phòng. Trong khi nằm đắp kín chăn thì cháu T và C có ôm hôn nhau và được sự đồng ý của cháu T, thì trong đêm ngày 26/5/2017 bị cáo C đã 02 (hai) lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu T.  Khi thực hiện hành vi giao cấu lần thứ nhất bị cáo đeo bao cao su, khi thực hiện giao cấu lần thứ hai bị cáo không đeo bao cao su, nên khi xuất tinh bị cáo cho ra ngoài. Sau khi thực hiện hành vi giao cấu với cháu T, thì giữa C và cháu T tiếp tục ôm nhau ngủ. Đến sáng ngày 27/5/2017 C đi gặp ông M lấy thêm 01 triệu đồng tiền cắm xe về đưa cho cháu T, tổng cộng C đưa cho cháu thương 02 triệu đồng, cháu T chi toàn bộ số tiền 02 triệu đồng cho việc ăn uống, thuê phòng và trả tiền thuê taxi. Đến sáng ngày 28/5/2017 cháu Nh và T mới trở về nhà.

Kết luận giám định pháp y về tình dục đối với cháu T:

- Âm hộ: Không có dấu hiệu xây xát âm hộ;

- Màng trinh: Giãn rộng, có vết rách cũ vị trí 2h, 6h, 9h, 11h. Không có vết rách mới;

- Âm đạo: Không có dấu hiệu xây xát âm đạo;

- Xét nghiệm tinh trùng: Không tìm thấy tinh trùng;

- Xét nghiệm HIV: Âm tính;

- Hiện tại không có thai.

Cáo trạng số: 79/KSĐT ngày 08/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum truy tố bị cáo về tội Giao cấu với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 115 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 115; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Đi u 48 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo C từ 36 tháng đến 42 tháng tù;

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi của mình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở khẳng định: Giữa bị cáo nguyễn Trung C và cháu Đặng Thị T có quan hệ tình cảm yêu thương nhau, nên vào đêm ngày 26/5/2017 tại phòng số 24 của nhà nghỉ R ở số A đường T, phường T, thành phố K, tỉnh Kon Tum bị cáo C đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu T. Việc bị cáo thực hiện hành vi giao cấu với cháu T là xuất phát từ tình cảm yêu đương, nên hoàn toàn có sự tự nguyện đồng tình của cháu T, không hề có sự cưỡng bức hay ép buộc nào. Tuy nhiên khi bị cáo thực hiện hành vi giao cấu với cháu T, thì cháu đang là trẻ em (14 tuổi, 7 tháng 17 ngày). Nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại Điều 115 của Bộ luật hình sự; trong đêm ngày 26/5/2017 bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu với cháu T, nên thuộc trường hợp phạm tội nhi u lần, là tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm a khoản 2 Đi u 115 của Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng của VKS truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng luật.

Xét tính ch t mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX xét thấy: Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự phát triển bình thường về mặt tình dục và sức khỏe của cháu T; trước khi thực hiện hành vi phạm tội này, bị cáo đã có một tiền án về Tội trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nên bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điề u 48 của BLHS; bị cáo có nhân thân không tốt, đã bị kết án về Tội cướp tài sản” và bị UBND thành phố K đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi trộm cắp tài sản. Căn cứ vào tính chất mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX xét thấy phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, cách ly bị cáo với đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đó là: Thành khẩn khai báo, được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

- Về vật chứng vụ án: không có.

- Về trách nhiệm dân sự: Cháu T và anh Đặng Văn T đại diện hợp pháp cho cháu T không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự, nên HĐXX không xem xét.

Trong vụ án có anh Hà Minh A là chủ sở hữu của xe máy BKS 76D1-063.46, anh A giao xe cho cháu T khi cháu chưa đủ 15 tuổi, chưa đủ điều kiện điều khiển xe máy tham gia giao thông, nên anh A có lỗi trong việc giao xe cho cháu T. Cháu T đã đem xe cầm cố cho một người tên M, không rõ lý lịch, nên chưa thu hồi được xe. Tại phiên tòa anh A vắng mặt, nhưng tại biên bản ghi lời khai ngày 12/9/2017 (bút lục 67), anh A đề nghị khi nào tìm được xe thì anh xin nhận lại, ngoài ra anh A không yêu cầu nào khác, nên HĐXX không đ  cập. Khi nào anh A có yêu cầu thì được khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 

1- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung C (Tên gọi khác: Nh) phạm tội  Giao cấu với trẻ em”;

2- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 115; Điều 33; điểm b khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung C (Tên gọi khác: Nh): 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/7/2017;

3- Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Trung C phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4- Bị cáo, người bị hại, Người đại diện phợp pháp cho người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 26/12/2017; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nên thời hạn kháng cáo 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2017/HS-ST ngày 26/12/2017 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:87/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về