Bản án 87/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 87/2017/HSST NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 20/7/2017, tại Hội trường xét xử TAND huyện Tĩnh Gia, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2017/HSST ngày 20/6/2017 đối với các bị cáo:

1. Lê Thạc L - Sinh năm: 1992; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Xóm A, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 8/12; Con ông: Lê Thạc L (Đã chết); Con bà: Nguyễn Thị L - Sinh năm 1974;

Tiền án:

- Tại bản án số 18/2012/HSST ngày 25/5/2012 của Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/02/2014.

- Tại bản án số 84/2014/HSST ngày 26/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xử phạt 32 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2017.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 26/3/2017 bị Công an thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/3/2017 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

2. Vũ Văn K - Sinh năm: 1987; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Xóm B, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Vũ Văn T (Đã chết); Con bà: Lê Thị T - Sinh năm 1963; Tiền án: Tại bản án số 547/2013/HSST ngày 29/11/2013 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/7/2015. 

Tiền sự: Ngày 16/6/2016 bị Công an phường Quỳnh Xuân, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/5/2017 đến nay; Có mặt tại  phiên tòa.

* Người bị hại: Nguyễn Tiến Q – Sinh năm: 1984

Địa chỉ: Thôn C, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

NHẬN THẤY

Các bị cáo Lê Thạc L và Vũ Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia truy tố hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/3/2017, Lê Thạc L đi xe ô tô khách từ thị xã H, tỉnh Nghệ An đến khu vực D thuộc địa phận xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa với mục đích tìm tài sản để trộm cắp. Đến nơi L đi bộ dọc theo đường Quốc lộ 1A thì nhìn thấy nhà anh Nguyễn Tiến Q ở thôn X, xã X, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa không khóa cửa. Thấy vậy L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của anh Q để bán lấy tiền tiêu xài.

Lê Thạc L đi vào trong nhà anh Nguyễn Tiến Q, thì nhìn thấy một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC ONE M9S màu gold và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R815 màu trắng để trên đầu giường phòng ngủ. Thấy vậy, L đi vào phòng lấy hai chiếc điện thoại bỏ vào túi quần, rồi đi ra bên ngoài tiếp tục tìm tài sản để trộm cắp. L nhìn thấy một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X8-1455 dựng ở gian nhà ngoài. L liền đi lại dắc chiếc xe mô tô ra bên ngoài, rồi dùng tay rút giắc điện, sau đó lên xe nổ máy chạy về Nghĩa trang xã X, thị xã H, tỉnh Nghệ An cất giấu.

Sau khi trộm cắp được số tài sản trên, Lê Thạc L đưa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R815 màu trắng cho Nguyễn Xuân L mượn để sử dụng. Đến sáng ngày 13/3/2017 Lê Thạc L gặp anh Phạm Văn B và nhờ anh B giới thiệu để L bán chiếc xe mô tô BKS 29X8-1455. Do không biết chiếc xe trên là tài sản do phạm tội mà có nên anh B đã giới thiệu Vũ Văn K cho L để L bán xe.

Khoảng 21 giờ ngày 13/3/2017, L đem chiếc xe mô tô đến quán của Vũ Văn K thuê ở khối Bắc Mỹ, phường Quỳnh Thiện, thị xã H, tỉnh Nghệ An bán cho K với giá 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Trước khi mua chiếc xe mô tô BKS 29X8-1455, Vũ Văn K hỏi về nguồn gốc xe và biết rõ đó là tài sản do L trộm cắp mà có.

Tại Kết luận định giá tài sản số 26/KLĐGTS ngày 16/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Tĩnh Gia kết luận:

- Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X8-1455 có giá trị 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng);

- Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu HTC ONE M9S màu gold có giá trị 3.990.000 đồng (Ba triệu chín trăm chín mươi nghìn đồng);

- Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo R815 màu trắng có giá trị 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng).
Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 10.190.000đ (Mười triệu một trăm chín mươi nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 87/CT-VKS ngày 20/6/2017 của VKSND huyện Tĩnh Gia truy tố Lê Thạc L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 và Vũ Văn K về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ chứng cứ. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng:

- Điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm b khoản 1 điều 41 và Điều 33 BLHS. Điểm c khoản 2 điều 76 và Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị xử phạt Lê Thạc L từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Truy thu của bị cáo L số tiền
1.800.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

- Khoản 1 Điều 250; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 BLHS. Điều 99 BLTTHS. Đề nghị xử phạt Vũ Văn K từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc hai bị cáo phải chịu tiền án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hai bị cáo đã thừa nhận:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/3/2017, Lê Thạc L đã có hành vi trộm cắp một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC ONE M9S màu gold, một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R815 màu trắng, một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X8-1455 của gia đình anh Nguyễn Tiến Q ở thôn X, xã X, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 10.190.000đ (Mười triệu một trăm chín mươi nghìn đồng).

Khoảng 21 giờ ngày 13/3/2017, Vũ Văn K đã có hành vi mua chiếc xe mô tô BKS 29X8-1455 từ L mà biết rõ đó là tài sản do L trộm cắp mà có.

Lời khai nhận của hai bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận Lê Thạc L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS và Vũ Văn K phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự là hoàn toàn chính xác.

Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả thấy rằng: Hiện nay tình trạng trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Tĩnh Gia đang diễn ra khá phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Hành vi phạm tội của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, làm cho nhân dân trên địa bàn hoang mang lo sợ. Vì vậy cần phải tuyên cho mỗi bị cáo một hình phạt thật nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng:Đối với bị cáo Lê Thạc L: Tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 26/3/2017 bị Công an thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Tiền án. Ngày 25/5/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 26/12/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xử phạt 32 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó hành vi phạm tội lần này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm, đây là tình tiết định khung hình phạt nên khi lượng hình không áp dụng điểm g khoản 1 điều 48 BLHS làm tình tiết tăng nặng. Nhưng khi lượng hình cũng cần thiết phải tuyên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới có tác dụng cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đối với bị cáo Vũ Văn K: Tiền sự 01: Ngày 16/6/2016 bị Công an phường Quỳnh Xuân, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Tiền án 01: Ngày 29/11/2013 bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo là tái phạm. Do đó khi lượng hình cần áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để tuyên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới có tác dụng cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, cả hai bị cáo đã thành khẩn khai báo nên hai bị cáo đều được áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS làm tình tiết giảm nhẹ lượng giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật.

Đối với Phạm Văn B là người giới thiệu để Lê Thạc L bán chiếc xe mô tô BKS 29X8-1455 cho Vũ Văn K, anh B không biết chiếc xe đó là do phạm tội mà có nên hành vi của anh B không cấu thành tội phạm.

Đối với Nguyễn Xuân L là người được Lê Thạc L cho mượn chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo R815 màu trắng để sử dụng. Hiện tại Lực không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra Công an huyện Tĩnh Gia chưa làm rõ được hành vi của Lực, sẽ tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật.

Xét về phần hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Xét về phần dân sự và vật chứng:

- Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X8-1455, chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC ONE M9S màu gold, chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo R815 màu trắng đã được Công an huyện Tĩnh Gia trả lại cho chủ sở hữu. Người bị hại không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử miễn xét.

- Đối với số tiền 1.800.000đ mà bị cáo L đã bán chiếc xe mô tô cho bị cáo K. Đây là tiền mà hai bị cáo dùng là phương tiện cho việc tiêu thụ tài sản do bị cáo L phạm tội mà có. Do đó cần phải áp dụng điểm b khoản 1 điều 41 BLHS và điểm a khoản 2 điều 76 BLTTHS truy thu của bị cáo L số tiền 1.800.000đ để sung quỹ nhà nước.

Xét về phần án phí: Các bị cáo phải chịu tiền án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 BLTTHS; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Lê Thạc L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Vũ Văn K phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 138; Điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt Lê Thạc L 36 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 17/3/2017.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 250; Điểm p khoản 1 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt Vũ Văn K 12 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 24/5/2017.

- Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Truy thu của Lê Thạc L số tiền 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) để sung quỹ nhà nước.

Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt hai bị cáo, vắng mặt người bị hại. Hai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải

thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:87/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về