Bản án 87/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 87/2017/HSST NGÀY 18/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 93/2017/HSST ngày 29/8/2017 đối với bị cáo:

Ngô Bá L, sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn NT, xã TY, huyện CM, TP. Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông: Ngô Bá H (đã chết) và bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1961; Vợ: Hoàng Diệu T, sinh năm 1990; Con: 01 con, sinh năm 2015; Tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 28/6/2016, Chủ tịch UBND xã TY, huyện CM ra Quyết định số 01/QĐ – UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng kể từ ngày 28/6/2016.

Nhân thân: Ngày 29/9/2011, Chủ tịch UBND huyện CM ra Quyết định số 1358/QĐ – UBND về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Ngày 17/9/2013, Chủ tịch UBND huyện CM ra Quyết định số 4623/QĐ – UBND về việc áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy, thời hạn 24 tháng từ ngày 15/10/2013 đến ngày 14/10/2015.

Danh ch 303 do Công an huyện CM cấp ngày 23/5/2017; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/5/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an TP. Hà Nội. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trịnh Văn D, sinh năm 1997; Trú tại: Thôn ĐN, xã HVT, huyện CM, Thành phố Hà Nội (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Ngô Bá L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện CM truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 23/5/2017, Trịnh Văn D đã gọi điện đến cho một đối tượng có tên là T thường gọi là T Rách khoảng 30 tuổi ở thôn Đ 2, xã ĐPY, huyện CM, Thành phố Hà Nội để hỏi mua 01 túi ma túy tổng hợp dạng đá với giá 500.000 đồng. T đồng ý và hẹn D đến cây xăng VS thuộc thôn Đ 2, xã ĐPY, huyện CM, Thành phố Hà Nội để giao dịch mua bán. Sau khi nghe điện thoại xong, T đưa cho L 01 túi ma túy tổng hợp dạng đá và chiếc điện thoại vừa liên lạc với D để L liên lạc với D. Do T hứa hẹn cho L sử dụng ma túy miễn phí và cho 01 chiếc coóng để sử dụng ma túy nên L đã đồng ý. L điều khiển xe máy BKS 30N6 – 6586 mang ma túy và chiếc điện thoại đến cây xăng VS. Khi đến nơi, L gọi điện cho D và hẹn gặp như đã thỏa thuận. Đến khoảng 14 giờ, L gặp D, D đưa cho L 500.000 đồng và L đưa lại cho D 1 túi ma túy đá. Khi D vừa nhận túi ma túy đá do L đưa thì bị lực lượng Công an huyện CM bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá; 01 điện thoại di động Viettel màu đen thu của L; 01 điện thoại di động Nokia thu của D; 500.000 đồng tiền Việt Nam lưu hành thu giữ trên người L do D vừa trả L; 01 xe mô tô Honda Wave, BKS 30N6 – 6586 đã qua sử dụng của L.

Tại Kết luận giám định số 3640/KLGĐ - PC54 ngày 14/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy Methamphetamine, trọng lượng 0,062 gam.

Tại Cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 28/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM truy tố  Ngô Bá L về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CM giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt  Ngô Bá L từ 30 đến 36 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy 01 túi Methamphetamine đã thu giữ; Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động Viettel của L; 01 điện thoại di động Nokia của D.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY

Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trịnh Văn D đã được triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng anh D có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh D không ảnh hưởng đến việc xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

Về nội dung: Lời khai của bị cáo phù hợp biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khách quan trong vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 00 ngày 23/5/2017, tại khu vực cây xăng VS thuộc thôn ĐN, xã ĐPY, huyện CM, TP. Hà Nội, Ngô Bá L có hành vi bán 01 túi ma túy tổng hợp Methamphetamine, trọng lượng 0,062 gam cho Trịnh Văn D với số tiền 500.000 đồng. Hành vi của Ngô Bá L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ” theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện CM truy tố Ngô Bá L theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những qui định nghiêm ngặt của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an trên địa bàn địa phương. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của tệ nạn ma túy cho sức khỏe nhưng vẫn cố ý phạm tội gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Nhân thân bị cáo xấu, đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện CM áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc và quản lý sau cai; Ngày 28/6/2016 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã TY áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Vì vậy cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, giúp đỡ bị cáo từ bỏ ma túy và răn đe phòng ngừa chung, góp phần đấu tranh kiên quyết với tội phạm ma túy.

Khi quyết định hình phạt, xét bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn cho bị cáo hình phạt bổ sung bằng tiền.

Đối với Phạm Văn T là đối tượng mà D và L khai là người D liên lạc để mua ma túy còn L khai là người đưa ma túy và điện thoại cho L đến liên lạc với D và bán ma túy cho D. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và triệu tập T nhiều lần để làm rõ hành vi của T trong vụ án nhưng T đều vắng mặt. Qua xác minh T vắng mặt tại địa phương nên không thể làm rõ hành vi, vai trò của T trong vụ án. Do đó không có đủ cơ sở xem xét giải quyết trong vụ án này. Cơ quan điều tra tiếp tục triệu tập làm rõ, khi nào đủ căn cứ chứng minh hành vi của T phạm tội sẽ xử lý sau nên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

Đối với Trịnh Văn D mua ma túy để sử dụng cho bản thân chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện CM đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức Cảnh cáo đối với D theo Nghị định167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là có căn cứ.

Về xử lý vật chứng:

-01 gói niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Q và đối tượng Ngô Bá L, Trịnh Văn D bên trong có chứa Methamphetamine cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 500.000 đồng thu của Ngô Bá L là tiền bán ma túy; 01 điện thoại di động Viettel thu của Ngô Bá L; 01 điện thoại di động Nokia thu của Trịnh Văn D là phương tiện dùng vào việc liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 30N6 – 6586 thu giữ khi bắt L. Cơ quan Điều tra đã tiến hành xác minh và xác định chiếc xe này thuộc quyền sở hữu của anh Ngô Bá T1, sinh năm 1986 ở thôn YT, xã TY, huyện CM, Thành phố Hà Nội. Cơ quan Điều tra đã trả lại chiếc xe này cho anh T1 theo quy định nên không đề cập xử lý.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Ngô Bá L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2.Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Ngô Bá L 30 (ba   mươi) tháng tù . Thời hạn từ tính từ ngày 23/5/2017.

3.Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Q, đối tượng Ngô Bá L, Trịnh Văn D bên trong có chứa Methamphetamine;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel vỏ màu đen đã qua sử dụng thu giữ từ Ngô Bá L và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu vàng đã qua sử dụng thu giữ từ Trịnh Văn D.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu của Ngô Bá L. (Toàn bộ số vật chứng và số tiền trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện CM  theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/8/2017 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949 của Chi cục thi hành án dân sự huyện CM tại Kho bạc Nhà nước huyện CM ngày 29/8/2017).

4.Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Áp dụng Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:87/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về