Bản án 867/DS-PT ngày 02/10/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán cám

TOÀ ÁN N DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 867/DS-PT NGÀY 02/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN CÁM

Ngày 02/10/2019 tại Phòng xử án Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 317/2019/TLPT-DS ngày 28/6/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán cám” Do bản án dân sự sơ thẩm số 134/2019/DS-ST ngày 23/05/2019 của Tòa án Nhân dân huyện C bị kháng cáo.

Theo Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số  4008/2019/QĐ-PT ngày 04/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 6959/QĐ-PT ngày 28/08/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự

Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Lan H, sinh năm 1975 (có mặt) 

Địa chỉ: Số 1310 tỉnh lộ S, tổ O, ấp L, xã A, huyện C, TPHCM.

Bị đơn:

Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1966 (có mặt).

Địa chỉ: Số 10 G, tổ F, ấp L, xã A, huyện C, TPHCM.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 228 V, Phường I, quận B, TPHCM.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Khúc Văn V, sinh năm 1968 (có mặt)

Địa chỉ: Số 1310 tỉnh lộ S, tổ O, ấp L, xã A, huyện C, TPHCM.

- Bà Thiên Thị P, sinh năm 1977 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 10 G, tổ F, ấp L, xã A, huyện C, TPHCM.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1987 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 228 V, Phường I, quận B, TPHCM.

Người kháng cáo: Ông Huỳnh Văn N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/8/2018, lời khai, biên bản hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ, hòa giải, bà Bùi Thị Lan H trình bày:

Bà H và ông Huỳnh Văn N có quan hệ quen biết do ở gần nhà nhau, bà H bắt đầu bán cám heo cho ông N từ tháng 2/2013. Lúc đầu do chưa thân quen và vốn ít nên bà H chỉ đồng ý bán thiếu cho ông N với điều kiện khi ông N bán heo thì phải thanh toán hết tiền cám, nếu có thiếu thì cũng chỉ ít chứ bà không bán thiếu nhiều do vậy từ ngày 28/2/2013 đến ngày 30/6/2014 ông N chỉ thiếu bà 11.000.000 (Mười một triệu) đồng tiền cám. Trong thời gian này, giá heo ổn định, người chăn nuôi cũng kiếm ăn được nên ông N đề nghị với vợ chồng bà H bán cám thiếu cho ông N nhiều hơn để ông N tăng đàn heo và kêu vợ ông N nghỉ làm bên ngoài về nhà cùng ông N chăn nuôi. Trong quá trình bán cám, bà H thấy ông N cũng giữ đúng lời hứa, mối quan hệ giữa vợ chồng bà H và vợ chồng ông N thân thiết như anh em trong nhà.

Bắt đầu từ ngày 03/7/2014, vợ chồng bà H thống nhất với vợ chồng ông N về việc làm 2 quyển sổ ghi tiền cám, loại sổ có ô ly dành cho học sinh, mỗi bên giữ 1 bản, mỗi lần lấy cám đều ghi ngày tháng năm, loại cám gì, giá bao nhiêu… đều được ghi cụ thể vào sổ đến khi cộng sổ thì mang 2 sổ ra đối chiếu.

Qua mỗi đợt bán cám, ông N có trả tiền cho bà H nhưng cũng có vài lần ông N xin trả ít lại để lấy tiền sửa chữa chuồng heo và làm hầm bioga. Vì nghĩ tình anh em quen biết đã lâu, có thời gian giá heo xuống thấp nhưng vợ chồng bà H vẫn bán thiếu cho ông N. Tính từ ngày 03/7/2014 đến ngày 08/5/2018 (ngày bà H xuống nhà ông N cộng sổ và đối chiếu với sổ của ông N) thì ông N còn nợ bà H số tiền 267.112.000 đồng theo cuốn sổ ông N ghi, còn sổ bà ghi thì ông N còn nợ bà số tiền 267.193.000 đồng. Do bà H thấy chênh lệch không nhiều nên bà H thống nhất với ông N là ông N còn nợ bà số tiền 267.112.000 đồng và ông N cũng đã ký nhận nợ sau quyển sổ của bà H.

Ngày 10/5/2018, bà H có đến nhà trao đổi với vợ chồng ông N về việc bà H không còn khả năng bán thiếu cho ông N nữa, ông N có mua cám nữa thì trả tiền liền. Vợ chồng ông N đồng ý để số nợ lại và mua cám trả tiền liền. Tuy nhiên, sau đó bà H không thấy vợ chồng ông N mua cám nữa, tiền thiếu cũng không nhắc đến nữa. Ngày 7/6/2018 chồng bà H là ông Khúc Văn V đến nhà ông N nói chuyện thì ông N lớn tiếng, dùng những lời lẽ thô tục chửi mắng vợ chồng bà H và xảy ra xô xát với bà H. Trước hành động và thái độ của ông N thì bà H đã làm đơn đề nghị Ủy ban Nhân dân xã A, huyện C giải quyết nhưng ông N không nhận nợ mà chỉ đồng ý trả số tiền cám còn thiếu là 80.000.000 đồng. Vì quyền lợi của mình, bà H gửi đơn khởi kiện, đề nghị buộc ông N và vợ là bà Thiên Thị P phải trả cho bà H số tiền cám còn thiếu là 267.112.000 đồng.

Khi Tòa án giải quyết, ông N không nhận nợ nhưng các kết quả giám định kết luận chữ viết “N” và chữ viết, họ tên “Huỳnh Văn N” trong sổ ghi tiền cám của bà H là do ông N viết ra nên bà H yêu cầu Tòa án buộc ông N và bà P phải trả cho bà H số tiền còn thiếu là 267.112.000 đồng và số tiền chi phí giám định là 3.000.000 đồng.

Tại các bản tự khai ngày 08/10/2018, ngày 19/10/2018; biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; biên bản hòa giải và biên bản làm việc, ông Huỳnh Văn N có người đại diện là ông Nguyễn Thanh B trình bày:

Bắt đầu từ ngày 03/7/2014, ông N mua cám của bà H để nuôi heo, theo tập quán của địa pH thì hàng năm ông N đều thanh toán đủ tiền mua cám cho bà H. Đến tháng 5/2018, bà H đột ngột yêu cầu ông N trả số tiền còn thiếu là 267.112.000 đồng. Ông N không đồng ý vì số tiền cám còn thiếu bà H đưa ra không có cơ sở và ông N chỉ đồng ý trả bà H số tiền cám còn thiếu là 80.000.000 đồng theo biên bản hòa giải ngày 28/6/2018 của Ủy ban Nhân dân xã A, huyện C.

Tại bản tự khai ngày 25/9/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm, ông Khúc Văn V trình bày: Thống nhất với ý kiến của bà H, đề nghị Tòa án buộc ông N phải trả số tiền còn thiếu là 267.112.000 đồng Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Thiên Thị P là vợ ông N có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Thanh B trình bày: Bà P thống nhất với ý kiến của ông N.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 134/2019/DSST ngày 23/5/2019 của Tòa án Nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 58; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 430 và Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ vào các Điều 6,7,26,30,31 và 32 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc ông Huỳnh Văn N và bà Thiên Thị P phải chịu trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà Bùi Thị Lan H và ông Khúc Văn V số tiền 267.112.000 ( hai trăm sáu mươi bảy triệu một trăm mười hai ngàn) đồng.

2. Buộc ông N phải trả cho bà H số tiền chi phí giám định chữ ký và chữ viết tại Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh là 3.000.000( ba triệu) đồng.

Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về phần lãi suất, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/6/2019, ông Nguyễn Thanh B là người được ông Huỳnh Văn N ủy quyền có đơn kháng cáo, nêu lý do: Không đồng ý với bản án sơ thẩm, xin xét xử lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Phía nguyên đơn bà Bùi Thị Lan H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của phía bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Phía bị đơn ông Huỳnh Văn N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông N, sửa bản án sơ thẩm như sau: Buộc bị đơn và bà P trả cho nguyên đơn số tiền mua cám còn thiếu là 80.000.000 đồng.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước phiên tòa hôm nay. Đối với các đương sự đã được đảm bảo đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng đối với ông Nguyễn Thanh B là người đại diện theo ủy quyền của ông N và bà P vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tuy nhiên, tại phiên tòa có mặt ông N tham gia phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông B.

Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Lan H, buộc ông Huỳnh Văn N và bà Thiên Thị P phải trả cho bà H số tiền mua cám còn thiếu là 267.112.000 đồng là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của phía bị đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] - Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Thanh B là người đại diện theo ủy quyền của ông N và bà P vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tuy nhiên tại phiên tòa có mặt ông N nên căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông B.

Về nội dung:

[1] Cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận cả hai có giao dịch dân sự mua bán cám từ ngày 03/7/2014 đến tháng 5/2018 và mỗi bên đều có sổ ghi tiền cám của mỗi người, sổ của ông N hiện không còn nên không cung cấp cho Tòa án.

Đây là những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người đại diện của ông Huỳnh Văn N là ông Nguyễn Thanh B và ông N không thừa nhận ông N còn thiếu vợ chồng bà H số tiền mua cám là 267.112.000 đồng và cũng không thừa nhận chữ ký và chữ viết của ông N tại cuốn sổ ghi tiền cám hiệu “ Hòa Bình” do bà H cung cấp mà ông N cho rằng ông N chỉ thừa nhận còn thiếu và đồng ý trả cho vợ chồng bà H số tiền 80.000.000 đồng.

Tòa án Nhân dân huyện C đã tiến hành trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết của ông N hai lần theo yêu cầu của bà H và người đại diện theo ủy quyền của ông N. Cụ thể như sau:

- Tại kết luận giám định số 183/C09B ngày 19/12/2018 của Phân viện khoa học hình sự - Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện: Chữ ký dạng chữ viết “N”, chữ viết họ tên” Huỳnh Văn N” trên tài liệu cần giám định 01 (một) cuốn sổ hiệu “ Hòa Bình” tại trang đánh số 25 đề mục “ Sổ nhà” có nội dung bắt đầu và kết thúc bằng những từ “cộng lại: 607.373.000...Huỳnh Văn N” (ký hiệu A) so với chữ viết Huỳnh Văn N trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M3) là do cùng một người viết (ký) ra.

Không đồng ý với kết luận giám định nêu trên, người đại diện theo ủy quyền của ông N yêu cầu giám định mực viết từ dòng “Cộng sổ Anh N...” đến dòng “ngày 8/5/2018 còn nợ 267112000” và chữ ký tên “N” cùng chữ viết tên “ Huỳnh Văn N” tại trang đánh số 25 có phải cùng một cây viết ra hay không, có viết cùng thời điểm hay không? Cuốn sổ còn đủ trang theo quy định hay không? Có dấu hiệu tháo gỡ, ghép thêm hay không? Trang Giấy có nội dung “cộng sổ Anh N...” đến dòng có chữ ký tên “ N” cùng chữ viết “ Huỳnh Văn N” có đánh số 25 và trang giấy có đánh số 24, có cùng một cuốn sổ hay không? - Tại kết luận giám định số 1171/C09B ngày 05/3/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện: “ 1. Không kết luận được mực viết từ dòng có nội dung “cộng sổ anh N …” đến dòng có nội dung “ ngày 08/5/2018 còn nợ 267.112.000”, chữ ký tên N và chữ viết “ Huỳnh Văn N” tại trang đánh số 25 được đóng dấu phân viện KHHS - số 1171 năm 2019-TLGĐ: A” có phải cùng một cây bút viết ra hay không; có viết cùng thời điểm hay không. 2. Không kết luận được cuốn sổ có còn đủ trang theo quy định hay không; có dấu hiệu tháo gỡ, ghép thêm hay không; trang đánh số thứ tự 24 và trang đánh số thứ tự 25 có cùng một cuốn sổ hay không? Từ các kết luận nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định ông N thiếu bà H và ông V số tiền mua bán cám là 267.112.000 đồng là có căn cứ. Ông N không thừa nhận số nợ trên nhưng không đưa ra được các chứng cứ chứng minh rằng ông N chỉ còn thiếu bà H số tiền 80.000.000 đồng . Việc ông N không trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà H và ông V là vi phạm Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 về nghĩa vụ trả tiền của bên mua tài sản. Ông N mua cám về để chăn nuôi phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình nên ông N và vợ là bà P phải có trách nhiệm liên đới trả nợ cho bà H một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông N.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của phía bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Như phân tích trên, xét đề nghị này là có căn cứ nên chấp nhận.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 58; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 273; Điều 280 và Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 430 và Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ vào các Điều 6, 7, 26, 30, 31 và 32 Luật thi hành án dân sự năm 2008 Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc ông Huỳnh Văn N và bà Thiên Thị P phải chịu trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà Bùi Thị Lan H và ông Khúc Văn V số tiền là 267.112.000 (hai trăm sáu mươi bảy triệu một trăm mười hai ngàn) đồng.

2. Buộc ông N phải trả cho bà H chi phí giám định chữ ký và chữ viết tại Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh số tiền là 3.000.000 (ba triệu) đồng.

Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà H và ông V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông N và bà P chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông N và bà P phải chịu là 13.355.600 (mười ba triệu ba trăm năm mươi lăm ngàn sáu trăm) đồng. Hoàn lại cho bà H số tiền 6.677.800 (sáu triệu sáu trăm bảy mươi bảy ngàn tám trăm) đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0033345 ngày 13/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Huỳnh Văn N phải chịu là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng. Ông Nguyễn Thanh B là người đại diện theo ủy quyền đã nộp thay theo biên lai thu tiền số AA/2019/0022165 ngày 11/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Huỳnh Văn N đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 867/DS-PT ngày 02/10/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán cám

Số hiệu:867/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về