Bản án 86/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 86/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 83/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

Nguyn Trọng H, sinh năm 1994, tại Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: phố Thành T (nay là phố Tân T), phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn T Tứ và bà Lê Thị K; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 03/01/2020 đến ngày 10/01/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Trương Tiến T, sinh năm 1988, tại Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT: phố Thành T (nay là phố Tân T), phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Tiến T và bà Hoàng Thị S; có vợ là Lê Thị Linh T; tiền sự: Không; tiền án:

- Ngày 05/4/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng X, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 07/7/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2015;

- Ngày 22/8/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2018.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/01/2020 tại trại tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 10/12/2019, Tại khu vực đường Dã T, phường Đông S, thành phố Thanh Hóa, phòng Cảnh sát Cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện Trương Tiến T và Nguyễn Trọng H có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra hành chính. Khi bị kiểm tra H liền ném xuống đất tại chỗ 01 gói nilong màu trắng, kích thước khoảng (1,5 x 1,5) cm, bên trong có chứa cá hạt tinh thể màu trắng thì bị bắt và thu giữ tang vật, thu giữ của Thao một xe mô tô biển kiểm soát 36B7 – 38172. Cùng ngày tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa thu giữ của H một điện thoại di động Samsung, số Imel: 352987, thu giữ của T một điện thoại di động Nokia, số model TA – 1156, đều đã qua sử dụng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Trọng H và Trương Tiến T khai nhận: Do nghiện ma túy nên vào khoảng 00 giờ ngày 10/12/2019, H gọi điện rủ T đi mua ma túy để sử dụng, T đồng ý và lấy xe máy đến đón H cùng đi, cả hai đi đến cổng phụ chợ đầu mối đường Dã T, phường Đông S, thành phố Thanh Hóa, H bảo T dừng xe đứng đợi, H đi vào trong ngõ mua của một người nam giới không rõ tên, địa chỉ một gói ma túy với giá 180.000đ, mua xong H cầm gói ma túy quay ra chỗ T đứng đợi rồi bảo Thao điều khiển xe máy chở H cùng ma túy đi tìm nơi sử dụng, khi cả hai vừa đi được khoảng 15m thì bị tổ Công tác Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 223/PC09 ngày 16/12/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,243 gam, loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho H, do H không biết rõ tên tuổi, địa chỉ của người này nên không có căn cứ để xác minh do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa không có căn cứ để xử lý. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36B7 – 38172 tạm giữ của Trương Tiến T, quá trình điều tra xác định chiếc xe này là do chị Lê Thị Linh T (vợ của Trương Tiến T) bỏ tiền ra mua để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và công việc hàng ngày của chị T, tuy nhiên khi mua xe chị T lại để T đứng tên đăng ký xe. Việc T dùng chiếc xe này để đi mua ma túy chị T không được biết, đây là phương tiện đi lại duy nhất của chị T, T không có đóng góp gì với chị T để mua chiếc xe này, chị T và T có đơn đề nghị Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe này cho chị T để chị T lấy phương tiện đi lại phục vụ cuộc sống nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Lê Thị Linh T chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36B7 – 38172.

Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKSTP ngày 24/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, truy tố bị cáo Trương Tiến T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trọng H, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.

Căn cứ: điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trương Tiến T, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù.

Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước hai chiếc điện thoại thu giữ của các bị cáo gồm: 01 điện thoại di động Samsung và một điện thoại Nokia.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa các bị cáo khai do bản thân nghiện ma túy nên vào khoảng 00 giờ ngày 10/12/2019, bị cáo Nguyễn Trọng H gọi điện rủ bị cáo Trương Tiến T đi mua ma túy để sử dụng, bị cáo T đồng ý và lấy xe máy đến đón H cùng đi, cả hai đi đến cổng phụ chợ đầu mối đường Dã T, phường Đông S, thành phố Thanh Hóa, bị cáo H đi vào trong ngõ mua của một người nam giới không rõ tên, địa chỉ một gói ma túy với giá 180.000đ, mua xong các bị cáo đi tìm nơi sử dụng, khi cả hai vừa đi được khoảng 15m thì bị tổ Công tác Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang cùng tang vật, qua giám định có tổng khối lượng 0,243 gam, loại Methamphetamin.

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản tuần tra kiểm soát của Phòng Cảnh sát cơ động – Công an tỉnh Thanh Hóa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Trọng H có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với bị cáo Trương Tiến T, tại bản án hình sự sơ thẩm số 181/2016/HSST ngày 22/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa bị cáo đã bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt là “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 250 của Bộ luật hình sự năm 1999, chưa được xóa án tích mà lần này lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt là “tái phạm nguy hiểm” do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Tiến Thao có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng các loại ma túy là chất gây nghiện được nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mặt khác hành vi phạm tội của các bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ. Vì vậy nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Trương Tiến T, tình tiết “tái phạm nguy hiểm” đã được xác định là tình tiết định khung hình phạt vì vậy bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm nguy hiểm”. Bị cáo có ba tiền án chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bố bị cáo là thương binh hạng 4/4, vì vậy nên áp dụng các quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể cho từng người. Bị cáo H là người khởi xướng đã rủ bị cáo T cùng thực hiện hành vi phạm tội đồng thời là người thực hành tích cực vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 58 của Bộ luật Hình sự để xem xét, cân nhắc mức hình phạt cho phù hợp với từng bị cáo.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung. Bị cáo H tuy là người khởi xướng thực hành tích cực, phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án tuy nhiên bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, bị cáo bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự còn bị cáo T đã có ba tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo bị tuy tố theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy bị cáo T phải chịu mức hình phạt cao hơn bị H là phù hợp.

[5] Đối với vật chứng: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành vì vậy cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma này.

Đối với chiếc hai chiếc điện thoại thu giữ của các bị cáo là điện thoại các bị cáo dùng để liên lạc rủ nhau đi mua ma túy sử dụng là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội vì vậy tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước hai chiếc điện thoại này theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] . Đối với người thanh niên bán ma túy cho các bị cáo, do các bị cáo không biết rõ tên tuổi, địa chỉ của người này nên không có căn cứ để xác minh vì vậy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Trọng H;

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trương Tiến T.

Căn cứ vào điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Nguyễn Trọng H, Trương Tiến T.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Trọng H, Trương Tiến T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng H 22 (hai hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ đi 07 ngày tạm giữ (từ ngày 03/01/2020 đến ngày 10/01/2020).

Bị cáo Trương Tiến T 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam là ngày 06/01/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước hai chiếc điện thoại gồm: 01 điện thoại di động Samsung màu đen, Imel 1: 352987/10/934769/2, điện thoại đã cũ; một điện thoại di động Nokia màu đen, model: TA-1156, điện thoại đã cũ. Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 87/THA ngày 26/02/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Bị cáo Nguyễn Trọng H, Trương Tiến T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về