Bản án 86/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 86/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 49/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1787/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT: Thôn TD, xã TH, huyện TL, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: QĐV, thành phố LT, Lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc);

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn TD, xã TH, huyện TL, thành phố Hải Phòng;

Các đương sự đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vinh Quang, huyện TL, thành phố Hải Phòng từ ngày 29/11/2002. Quá trình chung sống của vợ chồng luôn xẩy ra mâu thuẫn bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Từ đó, mâu thuẫn vợ chồng anh chị ngày càng trầm trọng. Anh chị không còn tiếng nói chung trong cuộc sống. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt dần. Nay, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung của vợ chồng không thể tiếp tục nên đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh D.

Vợ chồng anh chị có hai con chung là Nguyễn Thu T1, sinh ngày 11/01/2002 và Nguyễn Như X, sinh ngày 04/6/2009. Ly hôn, chị T đề nghị được nuôi cả hai con nhưng anh D muốn nuôi cả hai con thì chị T cũng đồng ý. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị xin tự giải quyết với anh D.

Về tài sản chung: Chị xin được tự giải quyết với anh D về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Phạm Thị T đề nghị không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Trong bản tự khai anh Nguyễn Văn D trình bày: Anh thống nhất với chị Phạm Thị T về quá trình kết hôn. Mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra là do cả hai vợ chồng cùng có lỗi. Xác định vợ chồng không còn tình cảm, vợ chồng không thể đoàn tụ đề nghị Toà án giải quyết cho anh và chị T được ly hôn với nhau.

Về con chung: Anh D thống nhất với chị T về việc vợ chồng có hai con chung, anh D đề nghị nuôi cả hai con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chung anh xin tự giải quyết với chị T

Về tài sản chung: Anh D thống nhất với T tự giải quyết về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn đề nghị của gia đình nguyên đơn thể hiện mâu thuẫn vợ chồng chị T và anh D đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn. Đồng thời, đề nghị giao con chung cho anh D nuôi dưỡng.

Nguyện vọng của các con chung đều đề nghị được ở với anh Nguyễn Văn D.

Tại phiên tòa, chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn D đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp hành đúng các quy định cua Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ , tham gia phiên tòa đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự ; bị đơn anh Nguyễn Văn D đã cung cấp đầy đủ lời khai, tài liệu, chứng cứ theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự, bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ chứng minh đó là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Anh Nguyễn Văn D và chị Nguyễn Thị T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vinh Quang, huyện TL, thành phố Hải Phòng từ ngày 29/11/2002 là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T và anh D. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thu T1, sinh ngày 11/01/2002 và Nguyễn Như X, sinh ngày 04/6/2009 cho anh D nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chung anh chị xin tự giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết. Về tài sản chung: Chị T và anh D xin tự giải quyết về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của đương sự tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về việc ly hôn. Anh Nguyễn Văn D hiện đang sinh sống ở thành phố Hải Phòng, chị Phạm Thị T ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc hòa giải vụ án và sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Phạm Thị T đang cư trú tại Lãnh thổ Đài Loan, chị T và anh D đề nghị không tiến hành hòa giải. Do vậy, căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn D đều vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn D và chị Nguyễn Thị T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vinh Quang, huyện TL, thành phố Hải Phòng từ ngày 29/11/2002, theo quy định tại Điều 9; Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng luôn xẩy ra mâu thuẫn do kinh tế khó khăn nên chị Phạm Thị T phải đi lao động ở nước ngoài (Đài Loan, Trung Quốc). Từ đó, mâu thuẫn vợ chồng anh chị ngày càng trầm trọng. Anh chị không còn tiếng nói chung trong cuộc sống. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt dần và anh chị đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cháp nhận đề nghị ly hôn của chị T.

[4] Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn D có hai con chung là Nguyễn Thu T1, sinh ngày 11/01/2002 và Nguyễn Như X, sinh ngày 04/6/2009. Ly hôn, chị T và anh D đều thống nhất: Anh D nuôi cả hai con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chung anh chị xin tự giải quyết. Mặt khác xét thấy, các con chung đều có nguyện vọng ở với bố và gia đình chị T có đề nghị anh D trực tiếp nuôi cả hai con chung vì chị T hiện tại đang ở nước ngoài. Thỏa thuận về việc nuôi con chung của chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn D không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên cần được chấp nhận: Giao cả hai con chung cho anh D chăm sóc, nuôi dưỡng đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung: Chị T và anh D không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung, anh chị tự giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 40; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao hai con chung Nguyễn Thu T1, sinh ngày 11/01/2002 và Nguyễn Như X, sinh ngày 04/6/2009 cho anh Nguyễn Văn D nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Văn D

không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị T và anh D không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung, anh chị tự giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng ) theo Biên lai số 0001656 ngày 12 tháng 3 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Phạm Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn D (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Chị Phạm Thị T (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:86/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về