Bản án 86/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 86/2018/HS-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TuyPhong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 79/2018/HSST, ngày 17/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Văn A, sinh ngày 31.10.2001, tại tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: phụ xe; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Văn B và bà: Nguyễn Thị C; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Quá trình hoạt động nhân thân:

- Ngày 10.08.2018 bị Công an huyện Tuy Phong xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

- Ngày 13.7.2018 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, bị cáo kháng cáo. Ngày 19/10/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận y án sơ thẩm.

- Ngày 02.08.2018 bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tuy Phong ra

Quyết định khởi tố bị can về hành vi cùng đồng phạm trộm cắp tài sản vào ngày24.03.201.

Bị cáo không bị tạm giam, hiện đang tại ngoại tại thôn K, xã K1, huyện W,tỉnh Bình Thuận. Có mặt.

- Đại diện hợp pháp cho bị cáo A: Ông Đinh Văn B và bà Nguyễn Thị C (là cha mẹ ruột của bị cáo A). Có mặt ông Đinh Văn B vắng mặt bà Nguyễn Thị C.

- Người bào chữa cho bị cáo A: Ông Nguyễn Trường D, trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bình Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị hại: ông Trần Xuân E, sinh năm 1977

Nơi cư trú: khu phố K4, thị trấn K, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Trung F, sinh năm 1988

Nơi cư trú: khu phố 1, phường Z1, thị xã Z2, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.

2. Bà Đinh Thị F1, sinh năm 1989

Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

3. Ông Nguyễn Hữu F2, sinh năm 1993

Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

4. Bà Lê F3, sinh năm 1978

Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

5. Ông Lê Thanh F4, sinh năm 2001

Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

6. Ông Võ Văn F5, sinh năm 1998

Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

7. Ông Trương Văn F6, sinh năm 1984

Nơi cư trú: Thôn K2, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

8. Ông Bùi Hoàng F7, sinh năm 1980

Nơi cư trú: Thôn K, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

9. Bà Trần Thị F8, sinh năm 1989

Nơi cư trú: Thôn K2, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

10. ông Diệp Văn F9, sinh năm 1997

Nơi cư trú: Thôn K2, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

11. Ông Trịnh Văn F10, sinh năm 1999

Nơi cư trú: Thôn K2, xã K1, huyện W, tỉnh Bình Thuận. Có mặt

12. Bà Nguyễn Thị F11, Nơi cư trú: Thôn K2, xã K1, huyện W. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 22.11.2017 Đinh Văn A điều khiển xe mô tô chở Lê Thanh F4 đem cùm sắt giàn giáo đến phòng trọ của Trương Văn F6 ở thôn K2, xã K1, huyện W gặp Trần Thị F8 (vợ của F6) để bán. A dừng xe mô tô trước cửa phòng trọ của F6 trao đổi giá tiền mua bán cùm sắt với F8 ở vị trí gần cổng nhà trọ thì lúc này Trần Xuân E, Tiêu Anh F12, Bùi Hoàng F7, Ngô Văn F13, Phan Minh F14 và F15 (chưa rõ lai lịch) đang nhậu tại phòng trọ Trương Văn F6 đi ra cổng lấy xe mô tô ra về. Khi nhóm của E đi ngang qua vị trí A và F8 đang đứng nói chuyện thì giữa A và Tiêu Anh F12 xảy ra cãi vã lớn tiếng với nhau về vấn đề giá bán cùm giàn giáo. A bỏ đi ra xe mô tô lấy một cây dao cán bằng gỗ dài 10cm, lưỡi bằng kim loại rộng 05cm, dài 08cm chạy hăm dọa đòi đâm Tiêu Anh F12 thì được mọi người can ngăn. E, F13, F7 và Tiêu Anh F12 lấy xe mô tô ra về. A tiếp tục ở lại bán cùm sắt giàn giáo cho F8. Sau đó, A điều khiển xe mô tô chở Lê Thanh F4 chạy rượt đuổi theo để tìm nhóm của Tiêu Anh F12 để đánh. Trên đường đi, A dừng xe lại cho F4 xuống vì F4 không muốn tham gia đánh nhau rồi A tiếp tục điều khiển xe mô tô rượt đuổi theo nhóm của Tiêu Anh F12 đến khu vực Cây Cầu thuộc thôn K2, xã K1 thì A chặn đầu xe máy của Tiêu Anh F12, E, F13 và F7 lại. A cầm dao định đâm Nguyên thì E ôm A lại can ngăn. A liền chạy vào phòng trọ của Đinh Thị F1 (cô ruột của A) và Nguyễn Trung F (bạn trai của F1) ở gần đó lấy 01 cây rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu đen, chiều dài khoảng 80cm để trước cửa phòng trọ của F1 rượt đuổi theo F7. F thấy A lấy rựa tại phòng trọ của Fnên chạy theo A để xem sự việc thế nào thì bị E đứng đối diện dùng hai tay nắm giữ hai tay của F giằng co qua lại. A nhìn thấy E và F đang giằng co nhau nên A đã dùng rựa đưa lên cao chém liên tiếp nhiều nhát trúng vào tay trái, trán và đầu của E gây thương tích, A được mọi người can ngăn giật lấy cây rựa và đưa A về nhà. Cùng lúc này, Trịnh Văn F10 và Võ Văn F5 đang ở tiệm internet Tuấn Vũ thuộc thôn K, xã K1, huyện W nghe tin A đánh nhau với nhóm của E nên chạy đến. F10 dùng tay tát vào mặt E một cái rồi bỏ đi. Sau đó, Diệp Văn F9 điều khiển xe mô tô chạy ngang qua nghe A bị đánh nên F9 đi đến dùng tay đánh một cái vào mặt E không gây thương tích rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi. E được mọi người đưa đến bệnh viện cấp cứu và điều trị vết thương.

Theo giấy chứng nhận thương tích số 06/CN ngày 29.11.2017 của Bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận, chứng nhận:

Trần Xuân E vào viện lúc 01 giờ ngày 23.11.2018, ra viện lúc 16 giờ 30 phút ngày 29.11.2018, tình trạng thương tích:

- 01 vết thương vũng giữa đỉnh đầu dài khoảng 03cm đã khâu cầm máu.

- 01 vết thương vùng chẩm (p) dài khoảng 2,5 cm đã khâu cầm máu.

- 01 vết thương vùng thái dương đỉnh (p) dài khoảng 2,5cm đã khâu.

- 01 vết thương vùng trước trán bên (t) dài khoảng 04cm đã khâu.

- 01 vết thương dưới cánh tay (t) dài khoảng 06cm đã khâu.

- 01 vết xây xát tại liên sườn V cách bờ trái xương ức khoảng 03cm.

Tại bản kết luận định giám định pháp y về thương tích số 47/2018/TgT ngày 15.12.2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Trần Xuân E:

- Vết sẹo phần mềm vùng trán trái, sẹo liền tốt, kích thước 3 x 0,2cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra chiều hướng tác động từ trước ra sau. Tỷ lệ tổn thương cơ thể

là 3%.

- Vết sẹo phần mềm vùng giữa đỉnh đầu, sẹo liền xấu, có hình chữ L, kích thước 4 x 0,3cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra chiều hướng tác động từ trên xuống. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 3%.

- Vết sẹo phần mềm vùng thái dương đỉnh phải, sẹo liền tốt, kích thước 1 x 0,1cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra chiều hướng tác động phải sang trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 1%.

- Vết sẹo phần mềm vùng chẩm phải, sẹo liền tốt, kích thước 2,5 x 0,2cm. 

Vết sẹo do vật sắc gây ra chiều hướng tác động từ phải sang trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 2%.

- Vết sẹo phần mềm mặt sau cánh tay trái, sẹo liền, kích thước 6 x 0,3cm. Vết sẹo do vật sắc gây ra chiều hướng tác động phụ thuộc vào tư thế tay trái của nạn nhân với vật gây thương. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 4%.

- Vết sẹo vùng ngực phải, sẹo liền tốt, kích thước 0.7 x 0,5cm. Vết sẹo do vật tày gây ra chiều hướng tác động từ trước ra sau. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 1%.

Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

+Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 78/CT/VKSTP-HS ngày 14.9.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn A phạm tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54; Điều 56; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 104 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20.6.2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn A mức án từ 09 đến 15 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù tại bản án 76/2018/HSPT ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản từ 15 đến 21 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tốtụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn A đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 78/CT/VKSTP-HS ngày 14.9.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận đây là vụ án Cố ý gây thương tích xảy ra vào khoảng hơn 21 giờ ngày 22.11.2017 tại thôn K2, xã K1, huyện W. Do Đinh Văn A thực hiện, chỉ vì mâu thuẩn nhỏ nhặt bị cáo đã cầm 01 cây rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu đen, chiều dài khoảng 80cm chém liên tiếp nhiếu nhát trúng vào mặt sau dưới cánh tay trái, trán và đầu của Trần Xuân E gây thương tích 13%. Hành vi của bị cáo xảy ra vào ngày 22.11.2017 đã cấu thành tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999 có khung hình phạt tù từ 02năm đến 7 năm. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt tù từ 2 năm đến 6 năm, khung hình phạt của BLHS năm 2015 nhẹ hơn so với BLHS năm 1999 nên căn cứ vào Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20.6.2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 và Điều 2, khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 để áp dụng khoản 2 Điều 134BLHS 2015 để xử lý theo hướng có lợi cho  bị cáo.

Vì vậy, Cáo trạng số 78/CT/VKSTP-HS ngày 14.9.2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (có 02 tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng năng lực nhận thức còn hạn chế, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho Trần Xuân E 13%, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, mang tính chất côn đồ, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của công dân, gây mất trị an tại địa phương nên cần phải xử phạt bị cáo bằng một mức án đủ để răn đe, giáo dục và tuyên truyền phòng ngừa tội phạm chung.

Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; bị cáo cùng gia đình đã tự nguyện bồi thường cho bị hại,bị hại có làm đơn bãi nại xin không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, gia đình bị cáo là người có công với cách mạng nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự. 

Bị cáo Đinh Văn A có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 và 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội lúc chưa đủ 18 tuổi nên đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử lý dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề cũng đủ trừng trị, giáo dục đối với bị cáo.

Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy rằng cầnthiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây rựa có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu đen, chiều dài khoảng 80cm không thu giữ được nên không xem xét.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Quá trình điều tra bị hại đã nhận bồi thường và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: bị cáo Đinh Văn A phạm tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 56; Điều 91; khoản 1 Điều 101 và Điều 104 Bộ luật hình sự năm2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20.6.2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn A mức án 09 (chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt06 tháng tù tại bản án 76/2018/HSPT ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnhBình Thuận. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian ở tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2] Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

[3] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện, người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:86/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về