Bản án 86/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2018/HS-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố TháiBình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số71/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Mạnh H (tên gọi khác: Vũ Mạnh D), sinh ngày 18 tháng 7 năm 1974 tại Thái Bình; nơi cư trú: Phường H1, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Mạnh Dương và bà Phạm Thị Th1; có vợ và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 26 ngày 24/12/2001 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, kể từ ngày tuyên án 24/12/2001 về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bản án số 25/HSST ngày 20/9/2002 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Bình, xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với 09 tháng tù của bản án trước, hình phạt chung phải chấp hành là 21 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/10/2004, chấp hành xong án phí ngày 14/02/2006; được áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, tại ngoại; có mặt.

- Bị hại: Anh Đào Văn P, sinh năm 1967; nơi cư trú: Thôn Đ1, xã N1, huyện T1, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đỗ Văn N,sinh năm 1975; nơi cư trú: Phường H1, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

- Người làm chứng:

+ Anh Phí Hồng P1, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn T2, xã Đ2, huyệnĐ, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

+ Anh Vũ Văn T, sinh năm 1981; nơi cư trú: Khu T3, thị trấn Th2, huyệnK, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

+ Anh Phạm Văn X, sinh năm 1975; nơi cư trú: Xã M, huyện V, tỉnh TháiBình; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 02 tháng 12 năm 2017, tại công trường thi công nhà ở liền kề thuộc địa phận Tổ 34, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, Vũ Mạnh H là công nhân làm sắt tại công trường có tháo 01 bóng điện chiếu sáng của công trường thì bị anh Đào Văn P phát hiện, yêu cầu H trả lại bóng điện. Sau đó anh P gọi điện báo lại sự việc với anh Phạm Văn X là chủ thầu thuê H làm việc tại công trường và yêu cầu anh X cho H nghỉ việc. Do không có số điện thoại để liên lạc với H nên anh X đã gọi điện thoại cho Đỗ Văn N với nội dung “Hai anh tạm nghỉ”, N hỏi lý do thì được anh X cho biết “Ông P bảo không có mắt nào mà trông coi hai anh được, có gì tìm ông P mà giải thích”. Khoảng 08 giờ ngày 04 tháng 12 năm 2017, Đỗ Văn N gọi điện cho H với nội dung “Mày đang ở đâu”, H nói “Tao đang ở bệnh viện điều dưỡng khám bệnh”. Sau đó, N đi xe máy đến chỗ H và nói “Mày đi xuống đây với tao một tí” nhưng không nói rõ là đi đâu, làm gì. N điều khiển xe máy chở H đến khu vực cổng trường xây dựng thì N xuống xe, dùng chân đạp cánh cổng ra rồi đi vào bên trong công trường, H đứng đợi ở bên ngoài. N tiến thẳng đến chỗ anh Phí Hồng P1 là bảo vệ công trường chửi “Sao mày bảo tao ăn cắp” và dùng tay đấm vào vùng cổ anh P1 được mọi người trong công trường chạy vào can ngăn, anh P1 bỏ chạy ra ngoài đường. Lúc này, H đứng phía ngoài cổng nghe thấy N to tiếng, cãi chửi nhau nên đã chạy vào bên trong, nhìn thấy nhiều người đang đứng quanh N nên nghĩ là N bị mọi người đánh. H đã nhặt ½ viên gạch đỏ dùng trong xây dựng ném về phía nhiều người đang đứng đó thì thấy anh P bỏ chạy nên nghĩ anh P là người đánh anh N. Do đó H tiếp tục nhặt ½ viên gạch chạy đuổi theo anh P ra phía khu vực cổng công trường. Khi ra đến cổng thì H đuổi kịp anh P, tay phải cầm viên gạch đập một nhát vào vùng vai bên phải của anh P làm rách da, tiếp tục dùng tay phải đấm một nhát vào vùng mũi anh P gây chảy máu. Lúc này được mọi người chạy lại can ngăn và đưa anh P đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình điều trị thương tích đến ngày 12 tháng 12 năm 2017 thì xuất viện.

Bản Kết luận giám định thương tích số 01/18/TgT ngày 05 tháng 01 năm2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình kết luận: “Thương tích vùng đầu mặt do vật tày tác động làm gãy xương chính mũi, tỷ lệ thương tích là 09%; thương tích vùng vai bên phải do vật tày cứng tác động, tỷ lệ thương tích là 03%. Tổng tỷ lệ thương tích tính theo phương pháp cộng lùi là 12%”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Mạnh H không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình nêu trên.

Quá trình điều tra, bị hại Đào Văn P không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 82/CT-VKSTP ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Vũ Mạnh H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyênquan điểm truy tố hành vi của bị cáo Vũ Mạnh H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017).

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm đ khoản 2 Điều 134 thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều51, Điều 38, Điều 50, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Mạnh H (tên gọi khác: Vũ Mạnh D) từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 04 tháng 12 năm 2017, tại công trường thi công nhà ở liền kề thuộc Tổ 34, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, Vũ Mạnh H đã có hành vi dùng ½ viên gạch đập vào cùng bả vai bên phải làm rách da, chảy máu gây thương tích 03% và dùng tay đấm một nhát vào vùng mặt anh Đào Văn P làm gãy xương sống mũi, gây thương tích 09%. Tổng tỉ lệ thương tích tính theo phương pháp cộng lùi là 12%.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, hành vi phạm tội của bị cáo H phù hợp với lời khai của người bị hại anh Đào Văn P, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đỗ Văn N và những người làm chứng anh Phí Hồng P1, Vũ Văn T và Phạm Văn X. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Giấy chứng nhận thương tích và các tài liệu liên quan đến việc điều trị vết thương; bản Kết luận giám định thương tích số 01/18/TgT ngày 05 tháng 01 năm 2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình; biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Tuy nhiên khi chưa biết rõ sự việc mà bị cáo đã vô cớ dùng gạch ném về phía đám đông người chỉ vì nghĩ những người đó đánh N và đã gây thương tích cho anh P, điều đó thể hiện sự ngông cuồng, coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy bị cáo phải chịu 02 tình tiết định khung là “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ”.

Bị cáo thực hiện hành vi cố ý gây thương tích vào ngày 04 tháng 12 năm 2017 tại thời điểm Bộ luật luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 chưa có hiệu lực pháp luật. Nhận thấy quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về hình phạt đối với tội “Cố ý gây thương tích” đã giảm so với Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, khi quyết định hình phạt cần áp dụng quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo H. Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

 “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

i) Có tính chất côn đồ;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này....”

Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo H có đủ các yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

* Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, xâm hại đến trật tự an ninh xã hội. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

* Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu, hai lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại anh P và anh P đã có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra bố mẹ đẻ của bị cáo làông Vũ Mạnh Dương và bà Phạm Thị Thanh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

* Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Vũ Mạnh H đã tự nguyện bồi thường thiệt hại số tiền là 12.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho anh Đào Văn P. Anh P đã nhận đủ số tiền, không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 134 thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134, khoản 3 Điều 7, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Mạnh H (tên gọi khác: Vũ Mạnh D) phạm tội “Cố ý gây thương tích”, phạt bị cáo Vũ Mạnh H (tên gọi khác: Vũ Mạnh D) 02 năm (hai năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

3. Về án phí: Bị cáo Vũ Mạnh H (tên gọi khác Vũ Mạnh D) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 25/5/2018. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:86/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về