Bản án 86/2018/HSST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 86/2018/HSST NGÀY 18/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2018. tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2018/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/QĐ-HSST ngày 06 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐINH ĐẶNG DUY Q. sinh ngày 26 tháng 5 năm 1981. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: 11A - H, Phường 10, thành phố Đ, Lâm Đồng. Chỗ ở: 11A - H, Phường 10, thành phố Đ, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Lái xe. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Đinh Xuân L, sinh năm 1948; Con bà: Đặng Thị N, sinh năm 1948. Vợ: Đỗ Thị Thu V, sinh năm 1985, có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2017. Hiện ở tại: 11A - Hồ Tùng M, Phường 10, thành phố Đ, Lâm Đồng. Tiền sự: Không. Tiền án: Tại bản án số 12/2012/HSST ngày 22/02/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng xử phạt 02 năm tù và phạt tiền bổ sung 5.000.000 đồng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/8/2013. Đền ngày phạm tội nới, bị cáo chưa chấp hành việc nộp phạt. Nhân thân: 1/ Tại bản án số 01/HSST ngày 08/01/2001 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng xử phạt 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; 2/ Ngày 29/8/2007 bị Công an thành phố Đ, Lâm Đồng phạt 200.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Bị bắt ngày 26/01/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đồng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Đặng Duy Q là đối tượng sử dụng chất ma túy (Heroin) từ năm 2011 và sau khi ra tù, đến năm 2016 lại tái nghiện. Quá trình sử dụng ma túy, Q có quen một phụ nữ tên N (không rõ lai lịch, địa chỉ) và biết N có bán ma túy. Khoảng 07 giờ 00 ngày 26/01/2018, Q liên hệ với Na hỏi mua 500.000 đồng Heroin nhưng khi gặp Q, N nói không có Heroin và rủ Q đi xuống thị trấn N, huyện L, Lâm Đồng để mua Heroin, Q đồng ý. Trên đường đi, Quang ghé vào nhà số 81E - V, Phường 5, thành phố Đ, Lâm Đồng gửi xe mô tô của Q tại đây và điều khiển xe của N, chở N xuống thị trấn N, huyện L, Lâm Đồng. Tại đây Q đưa cho N 500.000 đồng để N đi mua Heroin, N cầm tiền của Q rồi điều khiển xe đi một mình. Khoảng 15 phút sau, N quay lại, nói với Q đã mua được Heroin và điều khiển xe chở Q về lại thành phố Đ. Khi đi đến khu vực Đèo T, thị trấn N, huyện L, Lâm Đồng, N dừng xe lại rồi cả hai đi vào vườn cà phê cạnh đường, tại đây N phân chia cục Heroin vừa mua được thành các gói nhỏ và đưa cho Q 03 gói, Q lấy ra sử dụng tại chỗ hết 01 gói, còn lại 02 gói Quang bỏ vào trong túi áo khoác của Q rồi ra điều khiển xe chở N về Đ. Khi đi đến trước nhà số 81E - V, Phường 5, thành phố Đ, Lâm Đồng, Q dừng xe và trả xe cho N đi trước. Sau khi N đi, Q vào lấy xe mô tô của Q đã gửi trước đó thì bị Công an thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện Q đang tàng trữ trong túi áo khoác 02 gói giấy bạc màu xanh, bên trong chứa chất ở dạng cục bột màu trắng. Q khai nhận đó là số Heroin Q vừa mua với mục đích để sử dụng. Tiếp tục kiểm tra chung quanh, Cơ quan Công an còn thu giữ thêm một gói giấy bạc khác màu trắng, bên trong chứa chất ở dạng cục bột màu trắng cách chỗ bắt Q 06 mét theo hướng từ sân nhà đi xuống vườn nhưng Q không thừa nhận gói giấy bạc này là của mình. Quá trình điều tra chưa đủ căn cứ kết luận gói giấy bạc màu trắng này là của Q.

Tại Kết luận giám định số 508/GĐ-PC54 ngày ngày 28/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Chất ở dạng cục bột màu trắng đựng trong 02 gói giấy bạc màu xanh được niêm phong gởi giám định có khối lượng 0,1193 gam là chất ma túy, loại Heroin và chất ở dạng cục bột màu trắng đựng trong 1 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi giám định có khối lượng 1,2259 gam là chất ma túy, loại Heroin. Heroin là chất ma túy được qui định tại danh mục I, STT 20, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đinh Đặng Duy Q không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với Kết luận của Cơ quan giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 18/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng truy tố Đinh Đặng Duy Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Đặng Duy Q khai nhận vào sáng ngày 26/01/2018 bị cáo đã có hành vi nhờ một đối tượng tên Na, không rõ lai lịch, mua số ma túy, gồm: 03 gói giấy bạc màu xanh tại thị trấn N, huyện L, Lâm Đồng, sau đó sử dụng hết 01 gói, còn lại 02 gói Q tàng trữ để sử dụng tiếp và đến 10 giờ cùng ngày, khi bị cáo đang đi lấy xe đã gủi trước đó thì bị Công an thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện bắt giữ và thu giữ số ma túy trên với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Đinh Đặng Duy Q đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 0,1193 gam Heroin, là chất ma túy để sử dụng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Số ma túy còn lại 1,2259 gam Heroin, chưa đủ căn cứ kết luận là của bị cáo nên Viện kiểm sát chưa truy tố. Bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đinh Đặng Duy Q từ 24 đến 30 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật. Bị cáo tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, cho rằng bị cáo mua 500.000 đồng Heroin chỉ được 01 tép và đã sử dụng hết, 02 gói Heroin thu giữ khi bị bắt không phải của bị cáo, bị cáo chỉ khai nhận theo lời cán bộ điều tra và mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là quá cao đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát không chấp nhận khiếu nại của bị cáo vì không có căn cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Đinh Đặng Duy Q:

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có Heroin là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo mua và tàng trữ 0,1193 gam Heroin với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đinh Đặng Duy Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Việc bị cáo khai nại trong khi tranh luận là không có căn cứ chấp nhận bởi ngay từ khi lập biên bản phạm tội quả tamh bị cáo đã khai nhận và trong suốt quá trình diều tra cho đến khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận 02 gói ma túy trong giấy bạc màu xanh là của bị cáo, bị cáo chỉ không thừa nhận gói ma túy trong giấy bạc màu trắng là của mình và đã được chấp nhận.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 0,1193 gam Heroin. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do chưa chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền, thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng theo qui định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bố đẻ của bị cáo là người có công với nước, được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về áp dụng hình phạt bổ sung:

Xét hiện không xác định được bị cáo có nguồn thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có:

+ Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định; 01 cuộn băng keo màu đen (đã qua sử dụng), xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy;

+ Một điện thoại di động hiệu Zip mobile, vỏ màu trắng-đỏ (đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo, xét có liên quan đến hành vi liên lạc để mua bán ma túy nên tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Đinh Đặng Duy Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] . Áp dụng điểm c khoản 1 điếu 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đinh Đặng Duy Q 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/01/2018.

[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu để tiêu hủy: Hai phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định; 01 cuộn băng keo màu đen (đã qua sử dụng).

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Zip mobile vỏ màu trắng-đỏ (Đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/6/2018 giữa Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HSST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về