Bản án 86/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 86/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/2017/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Sồng A D; tên gọi khác: Không; sinh năm 1985; trú tại: Bản C L, xã L L, huyện V H, tỉnh Sơn La; dân tộc: Mông; trình độ văn hoá: 5/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Sồng A C, sinh năm 1942; con bà Tếnh Thị M, sinh năm 1943; có vợ là Hàng Thị V, sinh năm 1984 và 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 14 tháng 7 năm 2017 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 phút ngày 14/7/2017, tổ công tác Công an huyện V H, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại bản Pa K, xã L L, huyện V H, tỉnh Sơn La tiến hành kiểm tra Bùi Văn S, sinh năm 1978 và Lê Văn H, sinh năm 1980 đều trú tại: Tiểu khu 4, thị trấn M C, huyện M C, tỉnh Sơn La đang cùng đi bộ trên đường. Qua kiểm tra phát hiện Bùi Văn S đang cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc một gói nilon màu xanh, bên trong đựng chất nhựa màu đen, Bùi Văn S, Lê Văn H khai nhận đó là nhựa thuốc phiện S và H vừa mua được của Sồng A D, sinh năm 1985, trú tại Bản C L, xã L L, huyện V H với giá 50.000 đồng, mục đích để cùng nhau sử dụng. Cùng ngày công an huyện V H đã ra lệnh và thi hành lênh bắt và khám xét khẩn cấp đối với Sồng A D. Vật chứng thu giữ gồm: thu giữ của Sồng A D một tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng chất nhựa màu đen. Thu giữ của Bùi Văn S và Lê Văn H 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng chất nhựa màu đen.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành cân tịnh, xác định trọng lượng số chất nhựa màu đen thu giữ của Bùi Văn S và Lê Văn H có trọng Lượng 0,47 gam, lấy toàn bộ làm mẫu giám định, mẫu ký hiệu “SH”. Số chất nhựa màu đen thu giữ của Sồng A D có trọng Lượng 6,28 gam, lấy 01 gam làm mẫu giám định, mẫu ký hiệu “D” . Mẫu “SH” và “D” trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy.

Tại kết luận giám đinh số: 741/KLMT ngày 17/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu “SH, D” là chất ma túy; loại thuốc phiện; trọng lượng của mẫu gửi giám định SH = 0,47gam; D=01gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 6,75gam, loại thuốc phiện”.

Tại Cơ quan điều tra, Sồng A D, Bùi Văn S, Lê Văn H khai nhận: Bản thân đều là đối tượng nghiện chất ma túy và có quan hệ với nhau từ trước, loại ma túy thường sử dụng là nhựa thuốc phiện. Năm 2016 D trồng tại nương ngô của gia đình một diện tích cây thuốc phiện, mục đích là để lấy nhựa sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi trích được một lượng nhỏ thuốc phiện mang về cất giấu D đã phá cây thuốc phiện để trồng ngô. Khoảng 14 giờ ngày 14/7/2017 S và H gặp nhau tại bến xe khách M C, S rủ H đi mua mủ thuốc phiện để cùng nhau sử dụng, H đồng ý. S và H đón xe khách đi đến nhà Sồng A D để hỏi mua ma túy thì gặp D ở nhà, S hỏi mua được của D một gói nhựa thuốc phiện được gói bằng nilon màu xanh với giá

50.000 đồng. S cất gói nhựa thuốc phiện vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi cùng H đi bộ ra đường quốc lộ 6 để đón xe về nhà. Khi S và H vừa đi đến khu vực bản P Kh, xã L L huyện V H thì bị bắt.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 05/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Sồng A D về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V H giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội: Xử phạt bị cáo Sồng A D từ 30 (ba mươi) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Sồng A D. Về vật chứng đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 5,28 gam nhựa thuốc phiện cùng vỏ gói niêm phong ban đầu. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 50.000 đồng là số tiền do phạm tội mà có.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Sồng A D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị cáo Sồng A D khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày14/7/2017, bị cáo Sồng A D đã có hành vi bán trái phép 0,47 gam nhựa thuốc phiện cho Bùi Văn Sang hưởng lợi 50.000 đồng. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Sồng A D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 như quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên toà của Kiểm sát viên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần vận dụng khoản 1 điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 có mức hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tù đối với bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do hám lợi nên cố tình phạm tội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo có bố là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng

Huân chương kháng chiến hạng ba, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo Sồng A D đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Sồng A D còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với hành vi tàng trữ 0,47 gam nhựa thuốc phiện của Bùi Văn S và Lê Văn H, chỉ là vi phạm hành chính. Ngày 15 tháng 07 năm 2017 Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả tự do cho S và H, ngày 08/8/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V H đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Bùi Văn S, Lê Văn H và đề nghị UBND thị trấn M C, huyện M C áp dụng biện pháp giáo dục tại xã là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về nguồn gốc số nhựa thuốc phiện: Sồng A D khai nhận do D lấy từ cây thuốc phiện của D trồng tại nương ngô của gia đình vào năm 2016. Ngày 02/08/2017 Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại nương ngô của gia đình D đang canh tác tại khu vực bản C L, xã L L cách nhà D khoảng 4km hiện đang trồng cây ngô, không có cây thuốc phiện.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 5,28 gam nhựa thuốc phiện cùng vỏ gói niêm phong ban đầu là vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 50.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền do phạm tội mà có nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Sồng A D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017 QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội:

Xử phạt bị cáo Sồng A D 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2017 là ngày bị bắt tạm giam đối với bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 5,28 gam nhựa thuốc phiện cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 50.000 đồng của bị cáo Sồng A D

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về