Bản án 856/2019/DS-PT ngày 30/09/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 856/2019/DS-PT NGÀY 30/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30/9/2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/DSPT ngày 07/01/2019, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 1316/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3941/2019/QĐPT-DS ngày 29/8/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 7525/2019/QĐ-PT ngày 18/9/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông John NL, sinh năm 1971 (vắng mặt)

Địa chỉ: Căn hộ AW số C Đường NC, Phường H, quận BT, Thành phố H.

Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Thanh Tr (có mặt)

Địa chỉ: số nhà O đường LH, Phường M, Quận M1, Thành phố H (Công ty Pr).

Bị Đơn: Ông Lê Hoàng Q, sinh năm 1982 (có mặt)

Thường trú: số nhà N đường PQ, Phường C, quận PN, Thành phố H.

Nơi cư trú: số nhà B đường TN, phường BA, Quận H, Thành phố H.

Địa chỉ liên hệ: số nhà T đường VK, phường CK, Quận M, Thành phố H.

Ni đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Trương T, sinh năm 1975 (có mặt)

Địa chỉ: căn hộ số A, Chung cư B, phường Phước Long B, Quận C, Thành phố H.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hải Ch, sinh năm 1974 (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: số nhà J đường LH, Phường M, Quận M1, Thành phố H (Công ty Pr).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/12/2017 của ông John NL, cùng với lời khai của bà Nguyễn Thị Thanh Tr là ñaïi dieän theo ủy quyền trình bày: Do giữa ông John NL và ông Lê Hoàng Q có mối quan hệ là anh rể - em vợ, nên ông John NL thường cho ông Q mượn tiền nhiều lần, mỗi lần mượn từ 01 (một) đến 03 (ba) tháng và đều trả đầy đủ, đúng hạn.

Vào tháng 6 năm 2017, ông Q có việc riêng nên có hỏi ông John NL vay mượn số tiền là 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng, hẹn khoảng từ 01 (một) đến 03 (ba) tháng sẽ trả. Ông John NL đã nhờ bạn là ông Trần Hải Ch chuyển khoản cho ông Q với số tiền nói trên.

Quá trình mượn tiền của ông Q đã đến hạn nhưng vẫn không trả cho ông John NL. Tính đến tháng 7 năm 2017, ông Q vẫn còn nợ ông John NL số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng nói trên.

Nay phía ông John NL yêu cầu ông Lê Hoàng Q phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc là 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng và lãi là 53.120.000 (Năm mươi ba triệu một trăm hai mươi nghìn) đồng. Tổng cộng là 2.053.120.000 (Hai tỷ không trăm năm mươi ba triệu một trăm hai mươi nghìn) đồng, thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn: Ông Lê Hoàng Q vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Theo hồ sơ vụ án thể hiện ông Q hiện có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ số nhà N đường PQ, Phường C, quận PN, Thành phố H, hiện không thực tế cư trú tại địa chỉ trên, tạm vắng về địa chỉ số nhà A đường số B, phường LĐ, quận TĐ, Thành phố H do Công an phường C, quận PN xác minh ngày 19/5/2018. Tại công an Phường LĐ, quận TĐ xác nhận ông Q thực tế không cư trú tại số nhà A đường số B, phường LĐ, quận TĐ, Thành phố H đi đâu không rõ. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Q vắng mặt không lý do mặc dù Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật như: niêm yết Thông báo thụ lý vụ án, lấy lời khai, thông báo hòa giải và kiểm tra giao nộp công khai chứng cứ, kết quả của việc kiểm tra giao nộp công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Hải Ch khai rằng việc trình bày của ông John NL là đúng, ông Ch là bạn quen làm ăn chung với ông John NL. Cụ thể, ngày 09/6/2017 ông đến Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh KĐ địa chỉ số nhà 1 B đường KĐ, Phường C, Quận B, Thành phố H chuyển số tiền 2.000.000.000 ((Hai tỷ) đồng cho ông Lê Hoàng Q, ông Châu xác nhận đây là số tiền của ông John NL.

Tại phiên tòa ngày sơ thẩm phía đại diện ông John NL thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể yêu cầu ông Q trả cho ông John NL số tiền nợ là 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng và không yêu cầu trả lãi, còn ông Q vắng mặt không có lý do, ông Ch thống nhất với ý kiến của phía nguyên đơn, các đương sự khẳng định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho việc giải quyết vụ án, ngoài những tài liệu, chứng cứ đã nộp tại hồ sơ, không còn tài liệu, chứng cứ nào khác.

Bản án dân sự sơ thẩm số 1316/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân quận PN, Thành phố H quyết định:

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của ông John NL có bà Nguyễn Thị Thanh Tr đại diện về việc yêu cầu ông Lê Hoàng Q hoàn trả tiền vay.

2. Buộc ông Lê Hoàng Q có trách nhiệm trả cho ông John NL số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng. Thi hành một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, thực hiện tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành của đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/12/2018, ông Lê Hoàng Q kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 1316/2018/DS-ST ngày 28/11/2018. .

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; bị đơn không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Bị đơn xin xem xét yêu cầu hủy án vì tòa sơ thẩm không thu thập chứng cứ chứng minh không đầy đủ .Vi phạm tố tụng vì không nhập hai vụ án chung để giải quyết.

Nguyên đơn yêu cầu y án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm Phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều chấp hành và tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 1316/2018/DSST ngày 28/11/2018.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Lê Hoàng Q làm đúng hình thức, trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật nên được công nhận về mặt hình thức.

Về quan hệ tranh chấp: xét nguyên đơn khởi kiện bị đơn đòi trả số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng căn cứ vào giấy nộp tiền (bút lục số 224) nên quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là tranh chấp đòi tài sản. Tòa sơ thẩm xác định tranh chấp vay tài sản là không chính xác do đó cần điều chỉnh quan hệ pháp luật tranh chấp cho đúng là “Đòi tài sản”.

Về nội dung kháng cáo:

Căn cứ giấy nộp tiền tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam ngày 09/06/2017 “nội dung nộp tiền vào tên tài khoản Lê Hoàng Q”, với số tiền là 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng (BL số 224), có căn cứ xác định ông Q có nhận của ông John NL là số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng (do ông Trần Hải Ch chuyển dùm) là có căn cứ . Do đó Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên giữ nguyên.

Xét bị đơn Lê Hoàng Q kháng cáo yêu cầu hủy án: Yêu cầu nhập vụ án này trong vụ án ông Q kiện John NL trong cùng vụ án:

- Xét thấy vụ án đang được giải quyết có quan hệ tranh chấp “Đòi tài sản”, trong khi vụ án Tòa án Thành phố H thụ lý số 29/TBTL ngày 09/3/2018 là vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp”, thể hiện hai vụ án không có liên quan nhau, mặc khác vụ án thụ lý số 29/TBTL ngày 09/3/2018 đã được đình chỉ giải quyết do ông Lê Hoàng Q rút đơn khởi kiện. Do đó, bị đơn ông Lê Hoàng Q kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm để nhập hai vụ án là không có cơ sở chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện ông Q xuất trình chứng cứ mới cho rằng đây là số tiền hùn vốn đã trả cho ông John NL. Hội đồng xét xử xét thấy những chứng cứ do ông Q nộp thể hiện rõ chủ thể chuyển tiền hùn vốn là công ty Propzy Sea PTE LTD (Sing). Nguyên đơn trong vụ án này là cá nhân, ông Châu chuyển dùm tiền của ông John NL cho ông Lê Hoàng Q. Điều này ông Châu đã thừa nhận chuyển tiền dùm tại bản tự khai (bút lục số 187) nên có căn cứ xác định giao dịch trên là giữa cá nhân với cá nhân không liên quan đến việc hùn vốn của công ty với ông John NL không liên quan đến nhau. Ông Q kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ gì mới chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ giấy mượn tiền (bút lục số 224) thể hiện ông Q đã nhận số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng từ ông John NL nên việc nguyên đơn đòi bị đơn ông Lê Hoàng Q trả lại số tiền này là có căn cứ chấp nhận.Từ những nhận định trên, xét kháng cáo của ông Q là không có cơ sở để chấp nhận. Án sơ thẩm xử là có căn cứ nên cần giữ nguyên như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H.

Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của ông Q không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, Điều 91, khoản 2 Điều 92, các Điều 93, 227, 228, 232 của Bộ Luật Tố Tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 274, 278, 280, 332 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Hoàng Q.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 1316/2018/DSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận PN, Thành phố H.

2. Tuyên xử:

2.1. Chấp nhận yêu cầu của ông John NL.

2.2. Buộc ông Lê Hoàng Q có trách nhiệm trả cho ông John NL số tiền 2.000.000.000 (Hai tỷ) đồng. Thi hành một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, thực hiện tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra ông Q còn phải tiếp tục chịu tiền lãi trên số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: ông Q phải chịu 72.000.000 (Bảy mươi hai triệu) đồng. Ông John NL không phải chịu án phí. Hoàn lại cho ông John NL số tiền đã nộp 36.531.200 (Ba mươi sáu triệu năm trăm ba mươi mốt nghìn hai trăm) đồng theo biên lai tạm ứng án phí số AA/2017/0028267 ngày 26/12/2017 của chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp.

Án phí phúc thẩm: Ông Lê Hoàng Q phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí, được trừ vào số tiền đã nộp theo biên lai tạm ứng án phí số AA/2017/0041446 ngày 17/12/2018 của chi cục thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 856/2019/DS-PT ngày 30/09/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:856/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về