Bản án 85/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 85/2021/HS-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:61/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh T, sinh ngày 08 tháng 01 năm 1988 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 12/91 Thiên Lôi, phường Nghĩa Xá, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; nơi t ạm trú: Số 95 phố Cấm, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hảo và bà Vũ Thị Tám; có vợ là Vương Thị Phượng và 01 con sinh năm 2018; nhân thân, tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 27/01/2021; tạm giam từ ngày 30/01/2021; ngày 24/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh; có mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Nguyễn Thị Việt H, sinh năm 1975; nơi ĐKHKTT: Đường H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường L, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt

- Anh Đồng Văn H, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm1974, nơi cư trú: Đường H, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có công ăn việc ổn định, Nguyễn Mạnh T đã mở cửa hàng cầm đồ tại số 95 phố Cấm, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, ghi số điện thoại lên biển quảng cáo để thực hiện việc cho vay dưới hình thức vay lãi nằm. Cụ thể: Khách hàng sẽ liên hệ với T vay một khoản tiền gọi là nợ gốc, thỏa thuận về mức lãi suất, dao động từ 3000 đồng đến 5000 đồng/1 triệu/1 ngày tính trên nợ gốc, trả lãi vay theo tháng (01 tháng tính là 30 ngày); ngày trả lãi là ngày trùng với ngày vay tiền của các tháng tiếp theo, không cộng lãi vào gốc để tính lãi kỳ sau, không giới hạn về thời hạn vay cho đến khi trả hết nợ gốc. Sau khi thống nhất, T và người vay viết giấy vay nợ và ký tên xác nhận. Đến hạn trả lãi, người vay sẽ trực tiếp trả lãi cho Nguyễn Mạnh T tại số 95 phố Cấm, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 27/01/2021, T đang thu tiền lãi của người vay là chị Nguyễn Thị Việt H thì bị lực lượng công an tiến hành kiểm tra, thi hành lệnh khám xét khẩn cấp và giữ người trong trường hợp khẩn cấp; sau đó dẫn giải T về trụ sở xác minh làm rõ. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Mạnh T khai nhận đã cho nhiều người vay tiền:

1. Chị Nguyễn Thị Việt H vay tiền của T cụ thể như sau:

Lần thứ 1: Ngày 17/10/2019, chị Nguyễn Thị Việt H có vay của T số tiền là 220.000.000 đồng với hình thức vay lãi nằm như trên, lãi suất là 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày (tương đương 109,5%/năm), trả lãi hàng tháng. Chị H đóng tiền lãi cho T 03 tháng gồm các tháng 11, 12 năm 2019 và tháng 01 năm 2020, mỗi tháng là 19.800.000 đồng, tổng số tiền lãi 03 tháng là 59.400.000 đồng. Sau đó, chị H đã trả hết tiền gốc. Theo quy định của pháp luật số tiền lãi T được thu của chị H tối đa là 20%/năm tương đương số tiền 11.000.000 đồng. T đã thu lợi bất chính số tiền 48.400.000 đồng.

Lần thứ 2: Tháng 3/2020 chị H có vay của T số tiền là 300.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày (tương đương 109,5%/năm). Chị H đóng tiền lãi 06 tháng (từ tháng 4/2020 đến tháng 9/2020) mỗi tháng là 27.000.000 đồng, tổng số tiền lãi 06 tháng là 162.000.000 đồng. Theo quy định của pháp luật số tiền lãi T được thu của chị H tối đa là 20%/năm tương đương số tiền 30.000.000 đồng. T đã thu lợi bất chính số tiền 132.000.000 đồng. Sau đó, chị H có vay thêm tiền và trả một ít tiền gốc, cụ thể thế nào T và chị H không nhớ rõ nên T và chị H thống nhất tổng số tiền vay từ tháng 9/2020 là 400.000.000 đồng. Chị H đóng tiền lãi 04 tháng (từ tháng 10/2020 đến tháng 01/2021) mỗi tháng là 36.000.000 đồng, tổng số tiền lãi 04 tháng là 144.000.000 đồng. Theo quy định của pháp luật số tiền lãi T được thu của chị H tối đa là 20%/năm tương đương số tiền 26.667.000 đồng. T đã thu lợi bất chính số tiền 117.333.000 đồng. Khoản vay này, chị H chưa trả gốc 400.000.000 đồng thì T bị cơ quan điều tra bắt giữ.

Tổng số tiền lãi chị H đóng cho T từ các khoản vay nêu trên là 365.400.000 đồng. Tổng số tiền T thu lợi bất chính của chị H là 297.733.000 đồng.

2. Anh Đồng Văn H vay tiền của T cụ thể như sau:

Ngày 06/07/2020, anh Đồng Văn H có vay của T số tiền là 25.000.000 đồng dưới hình thức vay lãi nằm với lãi suất 5.000 đồng/1 triệu/1 ngày (182.5%/ năm). Anh H đóng tiền lãi cho T 06 tháng từ tháng 8/2020 đến tháng 01/2021, mỗi tháng là 3.750.000 đồng, tổng số tiền lãi 06 tháng là 22.500.000 đồng. Theo quy định của pháp luật số tiền lãi T được thu của anh H tối đa là 20%/năm tương đương số tiền 2.500.000 đồng. Đến nay, anh H chưa trả gốc. Số tiền T thu lợi bất chính của anh H là 20.000.000 đồng.

3. Chị Nguyễn Thị H vay tiền của T cụ thể như sau:

Lần thứ 1: Ngày 16/4/2019, chị H có vay của T số tiền là 20.000.000 đồng với hình thức vay lãi nằm, lãi suất 5.000 đồng/1 triệu/1 ngày (182.5%/ năm). Chị H đóng tiền lãi cho T 05 tháng (từ tháng 5/2019 đến tháng 9/2019), mỗi tháng là 3.000.000 đồng, tổng số tiền lãi 05 tháng là 15.000.000 đồng. Chị H đã trả hết tiền gốc. Theo quy định của pháp luật số tiền lãi T được thu của chị H tối đa là 20%/năm tương đương số tiền 1.667.000 đồng. Số tiền T thu lợi bất chính là 13.333.000 đồng.

Lần thứ 2: Tháng 10/2019, chị H có vay của T số tiền là 20.000.000 đồng dưới hình thức cho vay lãi nằm với lãi suất 5.000 đồng/1 triệu/1 ngày (182.5%/ năm). Chị H đóng tiền lãi cho T 08 tháng (từ tháng 11/2019 đến tháng 06/2020), mỗi tháng là 3.000.000 đồng, tổng số tiền lãi 08 tháng là 24.000.000 đồng. Chị H đã trả hết tiền gốc. Tháng 06/2020, khi lấy lãi và gốc, T cho lại chị H 1.000.000 đồng. Theo quy định của pháp luật số tiền lãi T được thu của chị H tối đa là 20%/năm tương đương số tiền 2.667.000 đồng. Số tiền T thu lợi bất chính là 20.333.000 đồng.

Tổng số tiền chị H vay của T là 40.000.000 đồng, chị H đã trả hết gốc. Tổng số tiền lãi chị H đóng cho T là: 38.000.000 đồng. Tổng số tiền T thu lợi bất chính của chị H là 33.666.000 đồng.

Tổng số tiền T thu lợi bất chính của ba khách vay nói trên là 351.399.000 đồng.

Ngày 29/01/2021, chị Vương Thị Phượng là vợ của Nguyễn Mạnh T đã tự nguyện giao nộp 36.000.000 đồng là tiền lãi tháng 01/2021 mà T đã thu của chị Nguyễn Việt Hà.

Ngoài ra, Nguyễn Mạnh T còn khai nhận có một số người có tên Nguyễn Thị Mai, Lương Thị Tuyết Mai, Phạm Đức T, Hoàng Thị Hoài Thu có viết giấy vay tiền của T nhưng T không nhớ rõ cụ thể thỏa thuận như nào. Qua xác minh, những người trên hiện không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai của họ.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi xách bên trong có 1.935.000 đồng là của chị Vương Thị Phượng, không liên quan đến hành vi cho vay lãi nặng của T nên đã trả lại cho chủ sở hữu;

01 chìa khóa xe ô tô, 01 bì nhựa bên trong có giấy tờ mua bán xe ghi tên Nguyễn Mạnh T, 01 túi cúc bên trong có 01 bản sao CMTND, bản sao giấy phép lái xe, bản sao sổ hộ khẩu mang tên Mai Thế Phẩm, bản sao giấy khai sinh mang tên Phạm Vi An, 01 quyển sổ bên trong ghi nội dung chi tiêu xét thấy là tài sản của Nguyễn Mạnh T, không liên quan đến hành vi phạm tội nên đã tr ả lại cho Nguyễn Mạnh T.

- 03 tờ giấy vay tiền ghi tên Nguyễn Thị Việt H; 01 giấy vay tiền, 01 hợp đồng thuê xe tự lái, 01 giấy bán xe, 01 giấy vay tiền đều mang tên Nguyễn Thị H, 01 giấy vay tiền, 01 chứng minh nhân dân, 01 đăng kí xe máy đều mang tên Đồng Văn H đã đư ợc sao chụp, đánh dấu bút lục đưa vào hồ sơ vụ án.

- 01 giấy vay tiền, 01 sổ hộ khẩu, 01 căn cước công dân đều mang tên Nguyễn Thị Mai, 02 giấy vay tiền, 01 bản sao chứng minh nhân dân của Lương Thị Tuyết Mai và 02 bản sao chứng minh nhân dân của Lê Xuân Cường (chồng Lương Thị Tuyết Mai), 01 giấy thế chấp, 01 bìa đỏ, 01 bản sao chứng minh nhân dân, 01 bản sao hộ khẩu mang tên Phạm Đức T, 01 giấy vay tiền, 01 giấy bán xe, 01 đăng kí xe, 01 bộ hồ sơ mua xe máy mang tên Hoàng Thị Hoài Thu. Các tài liệu trên đã được sao chụp, đánh dấu bút lục đưa vào hồ sơ vụ án. Đối với các giấy tờ bản gốc hiện chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan điều tra tách ra, khi nào có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

- 02 quyển sổ ghi chép việc cho vay; trong đó một sổ ghi tiền cho vay của khách bìa xanh lá cây kích thước 25x18 cm (đã ghi 20 tờ ,còn lại là giấy trắng) và một sổ ghi tiền thu lãi của khách bìa hồng, kích thước 25x18 cm (đã ghi 32 tờ, còn lại là giấy trắng) đã đư ợc đánh dấu bút lục đưa vào hồ sơ vụ án.

- 01 cặp nhựa màu xanh bên trong có 35 tờ mẫu giấy vay tiền (chưa ghi tên người vay) và số tiền 36.000.000 đồng đã chuyển cơ quan thi hành án.

Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 07/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 2 Điều 201 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng và xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo trình bày nếu được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, bị cáo có điều kiện để thi hành án, đồng thời đã nộp khắc phục hậu quả số tiền 200.000.000 đồng trước khi xét xử.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị Việt H có mặt tại phiên tòa trình bày quan điểm đồng ý với lời khai của bị cáo T. Lần đầu chị H đã vay của T 220.000.000 đồng tiền gốc và đã trả hết nợ gốc và trả 59.400.000 đồng tiền lãi cho các tháng 11, 12/2019 và tháng 01/2020. Hiện tại, chị H còn nợ T 400.000.000 đồng tiền nợ gốc và đã trả cho T tiền lãi từ tháng 4/2020 đến tháng 9/2020 là 162.000.000 đồng; tiền lãi từ tháng 10/2020 đến tháng 01/2021 là 144.000.000 đồng. Chị Việt Hà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đồng Văn H vắng mặt tại phiên tòa, có lời khai trong hồ sơ thể hiện: Anh H nợ bị cáo T 25.000.000 đồng nợ gốc, đã trả cho T 06 tháng tiền lãi (từ tháng 8/2020 đến tháng 01/2021), mỗi tháng 3.750.000 đồng, tổng tiền lãi đã trả T là 22.500.000 đồng. Hiện anh H chưa trả bị cáo tiền nợ gốc.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong hồ sơ thể hiện: Chị H vay của bị cáo T 02 lần, mỗi lần 20.000.000 đồng; tổng cộng vay 40.000.000 đồng, hiện đã trả hết nợ gốc. Tiền lãi lần đầu chị H trả cho T 15.000.000 đồng trong 05 tháng (từ tháng 5/2019 đến tháng 9/2019); lần thứ hai trả cho T 08 tháng tiền lãi là 24.000.000 đồng (từ tháng 11/2019 đến tháng 6/2020). Khi thanh toán hết tiền nợ gốc và nợ lãi, T cho chị H 1.000.000 đồng. Tổng cộng chị H đã trả cho T 38.000.000 đồng tiền lãi.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1, khoản 2 (khắc phục một phần hậu quả, bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì) Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Mạnh T mức án từ 230.000.000 đồng đến 250.000.000 triệu đồng về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự".

- Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo đã đư ợc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Đối với số tiền gốc Nguyễn Mạnh T cho vay và đã nhận lại từ người vay tổng cộng là 260.000.000 đồng là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước - Khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm mà bị cáo nhận từ những người vay tương đương với số tiền 74.501.000 đồng là tiền phát sinh từ hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tiền gốc mà những người vay chưa trả cho bị cáo, cần buộc nộp vào ngân sách Nhà nước. Cụ thể: Chị Nguyễn Thị Việt H phải nộp 400.000.000 đồng, anh Đồng Văn H phải nộp 25.000.000 đồng vào ngân sách Nhà nước.

- Về tiền thu lợi bất chính: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phải trả lại cho chị Nguyễn Thị Việt H số tiền 297.733.000 đồng; trả lại cho anh Đồng Văn H số tiền 20.000.000 đồng; trả lại cho chị Nguyễn Thị H số tiền 33.666.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cặp nhựa màu xanh bên trong có 35 tờ mẫu giấy vay tiền (chưa ghi tên người vay) theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu sung công số tiền 36.000.000 đồng đang tạm giữ tại tài khoản của cơ quan Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Đối với Nguyễn Thị Mai, Lương Thị Tuyết Mai, Phạm Đức T, Hoàng Thị Hoài Thu có viết giấy vay tiền của T. Tuy nhiên, qua xác minh, những người trên không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đư ợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Đồng Văn H và chị Nguyễn Thị H vắng mặt, không có lý do. Xét thấy, những người này đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; tại phiên tòa, bị cáo, Kiểm sát viên đều đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa v ụ liên quan vì trước đó họ đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

- Về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[3] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vật chứng thu giữ là các giấy vay tiền, sổ ghi tiền nợ gốc, nợ lãi và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2019 đến tháng 01/2021, Nguyễn Mạnh T đã cho chị Nguyễn Thị Việt H vay tiền có trả lãi là 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, tương ứng với mức lãi suất 108%/năm, gấp 5,4 lần mức lãi suất cao nhất quy định của Bộ luật Dân sự (20%/năm). Nguyễn Mạnh T đã cho anh Đồng Văn H, chị Nguyễn Thị H vay tiền có trả lãi là 5.000 đồng/1 triệu/1 ngày, tương ứng với mức lãi suất 180%/năm, gấp 9 lần mức lãi suất cao nhất quy định của Bộ luật Dân sự (20%/năm). Cụ thể, bị cáo đã cho chị Nguyễn Thị Việt H vay tổng cộng 620.000.000 đồng; anh Đồng Văn H vay 25.000.000 đồng; chị Nguyễn Thị H vay tổng cộng 40.000.000 đồng. Tổng số tiền T cho vay là 685.000.000 đồng; thu lãi tổng số tiền là 425.900.000 đồng (trong đó T thu lãi của chị Nguyễn Thị Việt H là 365.400.000 đồng, thu lãi của anh Đồng Văn H và chị Nguyễn Thị H là 60.500.000 đồng). Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền trong truy tố bị cáo tại Cáo trạng chính xác về số tiền thu lãi, tiền thu lợi bất chính nhưng tính chưa đúng về mức lãi suất %/năm mà bị cáo cho người vay vay tiền.

[3.1] Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự cho phép các bên thỏa thuận về lãi suất cho vay nhưng không được vượt quá là 20%/năm, tương ứng 1,667%/tháng của khoản tiền vay. Như vậy, trong tổng số tiền lãi 425.900.000 đồng (trong đó 365.400.000 đồng tương ứng lãi suất 108%/1 năm và 60.500.000 đồng tương ứng lãi suất 180%/1 năm) thì có 20% lãi suất hợp pháp. Vì vậy, tiền thu lời bất chính cần phải trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm của số tiền cho vay để xác định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Cụ thể:

[3.2] + Tiền lãi bị cáo đã nhận của chị Nguyễn Thị Việt H lần 1 là 59.400.000 đồng trong 03 tháng (tháng 11, 12/2019 + tháng 01/2020). Khoản tiền tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm là: 1,667% x 220.000.000 đồng x 03 tháng = 11.000.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính là: 59.400.000 đồng - 11.000.000 đồng = 48.400.000 đồng.

[3.3] Tiền lãi bị cáo nhận của chị Việt Hà lần 2 là 162.000.000 đồng trong 06 tháng (tháng 4/2020 đến tháng 9/2020). Khoản tiền tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm là: 1,667% x 300.000.000 đồng x 06 tháng = 30.000.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính được xác định: 162.000.000 đồng - 30.000.000 đồng = 132.000.000 đồng.

[3.4] Tiền lãi bị cáo nhận của chị Việt Hà lần 3 là 144.000.000 đồng trong 04 tháng (tháng 10/2020 đến tháng 01/2021). Khoản tiền tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm là: 1,667% x 400.000.000 đồng x 04 tháng = 26.667.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính được xác định: 144.000.000 đồng - 26.667.000 đồng = 117.333.000 đồng.

[3.5] Tổng số tiền lãi chị Việt Hà đóng cho T từ các khoản vay nêu trên là 365.400.000 đồng. Tổng số tiền T thu lợi bất chính của chị H là 297.733.000 đồng. [4] + Tiền lãi bị cáo đã nhận của Đồng Văn H là 22.500.000 đồng trong 06 tháng (tháng 8/2020 đến tháng 01/2021). Khoản tiền tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm là: 1,667% x 25.000.000 đồng x 06 tháng = 2.500.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính được xác định: 22.500.000 đồng - 2.500.000 đồng = 20.000.000 đồng.

[5] + Tiền lãi bị cáo đã nhận của chị Nguyễn Thị H lần 1 là 15.000.000 đồng trong 05 tháng (tháng 5/2019 đến tháng 9/2019). Khoản tiền tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm là: 1,667% x 20.000.000 đồng x 05 tháng = 1.667.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính được xác định: 15.000.000 đồng - 1.667.000 đồng = 13.333.000 đồng.

[5.1] Tiền lãi bị cáo đã nhận của chị Nguyễn Thị H lần 2 là 23.000.000 đồng trong 08 tháng (tháng 11/2019 đến tháng 6/2020). Khoản tiền tương ứng với mức lãi suất hợp pháp 20%/1 năm là: 1,667% x 20.000.000 đồng x 08 tháng = 2.667.000 đồng. Số tiền thu lời bất chính được xác định: 15.000.000 đồng - 2.667.000 đồng = 20.333.000 đồng.

[5.2] Tổng số tiền lãi chị H đóng cho T là: 38.000.000 đồng. Tổng số tiền T thu lợi bất chính của chị H là 33.666.000 đồng.

[6] Như vậy, tổng số tiền bị cáo thu lời bất chính từ việc cho 03 người vay là: 297.733.000 đồng + 20.000.000 đồng + 33.666.000 đồng = 351.399.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” được quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo về tội danh cũng như điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[7] Tính chất vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh v ực tài chính mà hành vi phạm tội của bị cáo còn làm cho người vay lâm vào hoàn cảnh khó khăn do phải trả lãi quá cao, làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội. Do đó, phải xem xét, xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo cho chị Nguyễn Thị Việt H vay lãi 03 lần, cho anh Đồng Văn H vay lãi 01 lần và cho chị Nguyễn Thị H vay lãi 02 lần; mỗi lần cho vay mức lãi suất đều gấp 05 lần trở lên theo quy định của Bộ luật Dân sự; tổng số tiền thu lợi bất chính trên 100.000.000 đồng. Vì vậy, lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình đi ều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn ăn hối cải; bị cáo đã nộp 200.000.000 đồng trước khi xét xử để khắc phục hậu quả; bố đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Văn Hảo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì và được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[10] Xét thấy, bị cáo trong một khoảng thời gian dài cho nhiều người vay tiền với mức lãi suất cao để thu lời bất chính. Tuy nhiên, việc cho vay và vay giữa bị cáo và những người vay là hoàn toàn tự nguyện, không ai bị ép buộc, bị cáo có điều kiện để thi hành hình phạt chính là hình phạt tiền. Do đó, áp dụng hình phạt chính đối với bị cáo là hình phạt tiền như đề nghị của Viện Kiểm sát là có căn cứ, đảm bảo theo quy định của pháp luật; đủ tính răn đe, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa chung.

[11] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, phải nộp vào ngân sách Nhà nước và trả lại cho những người có quyền lợi nghĩa v ụ liên quan số tiền lớn và đã áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 201 Bộ luật Hình sự [12] Đối với số tiền gốc Nguyễn Mạnh T cho vay: Đây là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo T phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền gốc cho vay đã nh ận lại từ chị Việt Hà là 220.000.000 đồng, chị H là 40.000.000 đồng; tổng cộng là 260.000.000 đồng.

[13] Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm mà bị cáo nhận từ những người vay tương đương với số tiền 74.501.000 đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự, khoản tiền lãi này không tính vào để định tội cho bị cáo. Tuy nhiên, đây là số tiền lãi phát sinh từ hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[14] Như vậy, tổng số tiền bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp vào ngân sách Nhà nước là 334.501.000 đồng. Vợ bị cáo T đã nộp 36.000.000 đồng là tiền chị Việt Hà trả lãi tháng 01/2021 và bị cáo đã n ộp 200.000.000 đồng khắc phục hậu quả nên tổng số tiền bị cáo đã nộp là 236.000.000 đồng sẽ được đối trừ vào tiền xử phạt và tiền tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước mà bị cáo phải nộp.

[15] Đối với số tiền gốc (tiền cho vay) mà những người vay chưa trả cho bị cáo; cụ thể: chị Nguyễn Thị Việt H chưa trả 400.000.000 đồng, anh Đồng Văn H chưa trả 25.000.000 đồng. Đây tiền bị cáo sử dụng là phương tiện để thực hiện tội phạm. Bởi vậy, không buộc chị Việt Hà, anh Đồng Văn H phải trả lại số tiền trên cho bị cáo mà buộc chị Việt Hà và anh H phải nộp vào ngân sách Nhà nước.

[16] Về tiền thu lợi bất chính: Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người vay cần buộc bị cáo phải trả lại cho người vay số tiền lãi đã thu từ mức lãi suất 21% trở lên. Cụ thể: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phải trả lại cho chị Nguyễn Thị Việt H số tiền 297.733.000 đồng; trả lại cho anh Đồng Văn H số tiền 20.000.000 đồng; trả lại cho chị Nguyễn Thị H số tiền 33.666.000 đồng; tổng cộng 351.399.000 đồng.

[17] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cặp nhựa màu xanh bên trong có 35 tờ mẫu giấy vay tiền (chưa ghi tên người vay) theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, [17.1] Tịch thu sung công số tiền 36.000.000 đồng đang tạm giữ tại tài khoản của cơ quan Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 07/4/2021 của Kho bạc Nhà nước thành phố Hải Phòng.

[18] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với khoản tiền thu lợi bất chính phải trả lại cho những người có quyền lợi, nghĩa v ụ liên quan là: 5% x 351.399.000 đồng = 17.569.950 (làm tròn 17.570.000 đồng); tổng cộng là 17.770.000 đồng.

[19] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được kháng cáo phần liên quan theo quy định của pháp luật.

[20] Đối với Nguyễn Thị Mai, Lương Thị Tuyết Mai, Phạm Đức T, Hoàng Thị Hoài Thu có viết giấy vay tiền của T. Tuy nhiên, qua xác minh, những người trên không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn c ứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 201; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Mạnh T 230.000.000 (Hai trăm ba mươi triệu) đồng về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự".

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền gốc cho vay đã nh ận lại từ những người vay là 260.000.000 (Hai trăm sáu mươi triệu) đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm mà bị cáo nhận từ những người vay là 74.501.000 (Bẩy mươi tư triệu năm trăm linh một nghìn) đồng.

Tổng cộng số tiền bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp 564.501.000 đồng; bị cáo đã nộp 236.000.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 6144 ngày 19/4/2021 số tiền 100.000.000 đồng; Biên lai thu tiền số 6261 ngày 14/5/2021 số tiền 100.000.000 đồng của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 07 tháng 4 năm 2021 của Kho bạc Nhà nước thành phố Hải Phòng số tiền 36.000.000 đồng) nên còn phải nộp 328.501.000 (Ba trăm hai mươi tám triệu năm trăm linh một nghìn) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

Buộc chị Nguyễn Thị Việt H phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng Buộc anh Đồng Văn H phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu) đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh T phải trả lại cho chị Nguyễn Thị Việt H số tiền 297.733.000 (Hai trăm chín mươi bẩy triệu bẩy trăm ba mươi ba nghìn) đồng; trả lại cho anh Đồng Văn H số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng; trả lại cho chị Nguyễn Thị H số tiền 33.666.000 (Ba mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn) đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cặp nhựa màu xanh bên trong có 35 tờ mẫu giấy vay tiền (chưa ghi tên người vay) theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Tịch thu sung công số tiền 36.000.000 đồng của Nguyễn Mạnh T đang tạm giữ tại tài khoản của cơ quan Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 07 tháng 4 năm 2021 của Kho bạc Nhà nước thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Mạnh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 17.570.000 đồng (làm tròn) án phí dân sự sơ thẩm; tổng cộng là 17.770.000 đồng.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Nguyễn Mạnh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị Việt H được quyền kháng cáo bản án về phần liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Đồng Văn H, chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án về phần liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 85/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

Số hiệu:85/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về