TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 85/2021/HS-PT NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Lâm Huệ D, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2021/HS-ST ngày 24/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Lâm Huệ D, sinh năm 1990, tại P, Kiên Giang. Nơi đăng ký thường trú: Khu phố 1, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: Khu phố 6, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Trung Q và bà Huỳnh Thị T; Vợ: Nguyễn Thị Bé N và 01 người con sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: 02 lần.
- Lần 1: Ngày 29/9/2008 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) P xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
- Lần 2: Ngày 19/6/2012 bị Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 13/3/2016 chấp hành xong hình phạt, đến nay chưa được xóa án tích do chưa nộp án phí.
Sau khi vụ án xảy ra, bị cáo bỏ trốn và bị truy nã. Ngày 07/10/2020, bị cáo ra đầu thú, hiện bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 04/3/2020, Đặng Quốc B, Nguyễn Văn K, Nguyễn Thanh T1, Phan Ngọc D1, Trần Tuyết M, Phan Thị Kim, Trần Thị Bích X, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Bích P, Phạm Thị Kim Y và một số người chưa rõ nhân thân đến nhà Lâm Huệ D thuộc khu phố 6, thị trấn A, huyện P, tỉnh Kiên Giang để chơi đánh bạc với hình thức lắc tài, xỉu ăn thua bằng tiền, D cho những người trên chơi đánh bạc trên lầu 1 của căn nhà. B và K hùn tiền với nhau trực tiếp cầm cái lắc tài, xỉu cho những người chơi đặt cược, tiền đặt thấp nhất 200.000 đồng, cao nhất 1.000.000 đồng, sòng bạc chơi được một lúc thì một số người chưa rõ nhân thân nghỉ chơi bỏ về, đến khoảng 17 giờ cùng ngà y thì bị lực lượng Công an thị trấn A, huyện P bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc 6.937.000 đồng, thu giữ tiền dùng vào việc đánh bạc trên người những người chơi 59.622.000 đồng, cụ thể như sau:
- Đặng Quốc B mang theo 10.270.000 đồng, Nguyễn Văn K mang theo 10.645.000 đồng và thống nhất mỗi người góp 10.000.000 đồng làm vốn cùng nhau trực tiếp làm cái cho 09 người khác thay nhau đặt tiền. B và K làm cái đến khi bị bắt thì thua 14.000.000 đồng, bị thu giữ 6.000.000 đồng tiền vốn làm cái, K bị thu giữ 645.000 đồng tiền cá nhân, B bị thu giữ 270.000 đồng tiền cá nhân;
- Nguyễn Thanh T1 mang theo 10.000.000 đồng để đánh bạc, đặt 05 ván, ván đặt thấp nhất 500.000 đồng, cao nhất 1.000.000 đồng, đến khi bị bắt không ăn không thua và bị rơi tại chiếu bạc 1.000.000 đồng, thu giữ 9.000.000 đồng tiền đánh bạc;
- Nguyễn Văn T2 mang theo 8.270.000 đồng để đánh bạc, đặt 05 ván, ván đặt thấp nhất 200.000 đồng, cao nhất 1.000.000 đồng, đến khi bị bắt thua 200.000 đồng, bị rơi tại chiếu bạc 3.000.000 đồng, thu giữ 5.070.000 đồng;
- Nguyễn Thanh Q mang theo 13.200.000 đồng, lấy ra 8.200.000 đồng đánh bạc và cho Nguyễn Bích P 200.000 đồng để P đánh bạc, đặt 05 ván, ván đặt thấp nhất 500.000 đồng, cao nhất 1.000.000 đồng, đến khi bị bắt tháng 500.000 đồng, thu giữ 8.500.000 đồng tiền đánh bạc và 5.000.000 đồng tiền cá nhân;
- Phan Ngọc D1 mang theo 35.622.000 đồng, lấy ra 3.622.000 đồng để đánh bạc, đặt 05 ván, ván đặt thấp nhất 500.000 đồng, cao nhất 1.000.000 đồng, đến khi bị bắt không ăn không thua, thu giữ 3.622.000 đồng tiền đánh bạc và 32.000.000 đồng tiền cá nhân;
- Phạm Thị Kim Y mang theo 3.000.000 đồng để đánh bạc, đặt 05 ván, ván đặt thấp nhất 200.000 đồng, cao nhất 500.000 đồng, đến khi bị bắt thắng 2.000.000 đồng, thu giữ 5.000.000 đồng tiền đánh bạc;
- Trần Thị Bích X mang theo 2.720.000 đồng để đánh bạc, đặt 05 ván, ván đặt thấp nhất 200.000 đồng, cao nhất 500.000 đồng, đến khi bị bắt thia 700.000 đồng, thu giữ 2.020.000 đồng tiền đánh bạc và 20.000.000 đồng tiền cá nhân do Nguyễn Thị D1 trả nợ;
- Trần Tuyết M mang theo 55.200.000 đồng, lấy ra 2.200.000 đồng để đánh bạc, đặt 10 ván, ván đặt thấp nhất 500.000 đồng, cao nhất 1.000.000 đồng, đến khi bị bắt thắng được 2.300.000 đồng, thu giữ 4.500.000 đồng tiền đánh bạc và 53.000.000 đồng tiền cá nhân;
- Phan Thị Kim L mang theo 2.100.000 đồng, lấy ra 1.610.000 đồng đánh bạc, đặt 10 ván, ván đặt thấp nhất 200.000 đồng, cao nhất 500.000 đồng, đến khi bị bắt thua 1.610.000 đồng, thu giữ 490.000 đồng tiền cá nhân;
- Nguyễn Bích P khi đến sòng bạc được Nguyễn Thanh Q cho 200.000 đồng để tham gia đánh bạc, P đặt 03 ván, mỗi ván 200.000 đồng, đến khi bị bắt thua 200.000 đồng, thu giữ 500.000 đồng tiền cá nhân.
* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2021/HS-ST, ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1. Tuyên bố: Bị cáo Lâm Huệ D phạm tội “Đánh bạc”.
2. Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lâm Huệ D 03 (ba) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 05/4/2021 bị cáo Lâm Huệ D có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị HĐXX áp dụng điểm r, s, t, u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa: Bị cáo Lâm Huệ D thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang đã xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng tội của bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Mặc dù, bị cáo không trực tiếp tham gia với những người khác trong vụ án trước đó, nhưng bị cáo đã tạo điều kiện cho họ đến nhà mình để họ làm nơi sát phạt lẫn nhau, điều này thể hiện bị cáo tham gia với vai trò giúp sức, từ đó cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Đánh bạc” là có căn cứ. Tuy nhiên, mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù là quá nghiêm khắc. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là tích cực hợp tác với cơ quan công an trong việc bắt tội phạm mua bán ma túy trên địa bàn nên áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo; đồng thời áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ nghiêm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống còn từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:
Xét đơn kháng cáo của bị cáo về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quyết định của Bản án sơ thẩm:
Vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 04/3/2020, tại khu phố 6, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang, bị cáo Lâm Huệ D rủ nhiều người khác về nhà mình với ý định cùng tham gia đánh bạc. Tuy nhiên, khi về đến nhà do có bạn đến rủ nhậu nên D không tham gia đánh bạc cùng họ, mà đưa họ lên phòng trống trên nhà của mình để họ tham gia sát phạt bằng hình thức lắc tài xỉu, bỏ mặc hậu quả xảy ra. Việc đánh bạc diễn ra liên tục đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì bị bắt quả tang với số tiền dùng để đánh bạc là 66.559.000 đồng. Sau khi khởi tố bị cáo bỏ trốn đến ngày 07/10/2020, Lâm Huệ D ra đầu thú tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện P. Hành vi của bị cáo là đồng phạm giúp sức, tạo điều kiện cho những người khác vào nhà mình để làm nơi tham gia sát phạt. Do đó, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo:
HĐXX xét thấy, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội Đánh bạc theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS là đúng tội danh của bị cáo. Tuy nhiên, mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù là quá nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi, bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức, tạo điều kiện cho những người khác vào nhà mình để tham gia sát phạt, rồi bỏ mặc cho hậu quả xảy ra; chứ bị cáo không tham gia đánh bạc, cũng không thu tiền xâu từ các con bạc nên vai trò, mức độ phạm tội của bị cáo có phần nhẹ hơn so với các bị cáo trong cùng vụ án đã xét xử trước.
Mặt khác, trong hồ sơ thể hiện bị cáo có đơn xác nhận của Công an phường A, thành phố P về việc bị cáo tích cực hợp tác với công an trong việc bắt tội phạm mua bán ma túy trên địa bàn (bút lục 136), nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là cần thiết.
Ngoài ra, bị cáo kháng cáo đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm r (tự thú) và điểm u (người phạm tội lập công chuộc tội) khoản 1 Điều 51 BLHS là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ, bị cáo ra đầu thú sau thời gian bỏ trốn, chứ không phải là tự thú nên cấp sơ thẩm đã áp dụng kh oản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo là phù hợp; việc bị cáo phối hợp với công an bắt hai đối tượng mua bán ma túy đã được áp dụng vào điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS, nên không áp dụng điểm u cho bị cáo là phù hợp.
Qua đánh giá tính chất, mức độ, vai trò hành vi phạm tội của bị cáo như trên và áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS, HĐXX xét thấy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là có căn cứ chấp nhận. Do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS nên xem xét áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt cũng đủ tính giáo dục, răn đe đối với bị cáo, đồng thời cũng thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật nước ta.
[4] Về quan điểm của Kiểm sát viên: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp nên cần chấp nhận.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Do bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kh áng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lâm Huệ D.
Sửa bản án sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
2. Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lâm Huệ D 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 85/2021/HS-PT ngày 22/06/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 85/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về