Bản án 85/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 85/2020/HS-ST NGÀY 15/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 91/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Lương Thế T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1995, tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Xuân Q (đã chết) và bà Triệu Thị L; có vợ: Nông Thị H, sinh năm 1994; có con 01 con 02 tháng tuổi; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2020 đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Dương Thị Quỳnh H, là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Triệu Thị L, sinh năm 1960. Có mặt;

2. Chị Nông Thị H, sinh năm 1994. Có mặt.

Cùng trú tại: Thôn Lù Thẳm, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 ngày 08/9/2020, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng đang làm nhiệm vụ tại km 14 quốc lộ 4A, đoạn thuộc khu T, thị trấn N, huyện V, phát hiện một nam thanh niên điều khiển xe mô tô biển đi từ hướng thị trấn N, huyện V, có biều hiện nghi vấn, Tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra, nam thanh niên chấp hành và trình bày không mang theo giấy tờ tùy thân, tự khai họ tên là Lương Thế T và tự giác lấy từ trong túi quần đang mặc trên người ra 01 túi nilon màu trắng (loại đựng bơm kim tiêm) chứa các gói nhựa màu xanh nước biển, giao nộp cho Tổ công tác, Tổ công tác nhận lấy và mở ra kiểm tra, bên trong túi nilon màu trắng, có 07 gói nhựa màu xanh, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng, nghi là chất ma túy Heroine. Lương Thế T khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 07/9/2020 đi xe mô tô đến cửa khẩu T, huyện V mục đích mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời. Đến nơi gặp 01 người đàn ông lái xe ôm khoảng 32 tuổi (không biết tên tuổi địa chỉ), Lương Thế T đưa cho người đàn ông đó 1.000.000 đồng, khoảng 15 phút sau người đàn ông quay lại đưa cho 01 túi nilon màu trắng (loại đựng bơm kim tiêm) trong có 10 gói giấy chứa chất ma túy, mang về nhà xẻ ra cho vào các ống nhựa màu xanh nước biển, tổng cộng được 15 gói. Từ ngày 07/9/2020, đến khoảng 07 giờ ngày 08/9/2020 Toàn sử dụng đi 06 gói ma túy, bán được 02 gói cho 02 người nghiện được 200.000 đồng, còn 07 gói ma túy vẫn để trong túi nilon màu trắng để trong túi quần bên trái đang mặc trên người, Lương Thế T điều khiển xe mô tô đi từ nhà xuống thị trấn N, huyện V, mục đích đến nhà hoang ở thôn T, thị trấn N để bán ma túy cho người nghiện. Khi đi đến km 14, quốc lộ 4A đoạn thuộc thôn T, thị trấn N, huyên V, thị bị Tổ công tác Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Tài liệu, đồ vật thu giữ, tạm giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng (loại đựng bơm kim tiêm) bên trong có 07 gói nhựa màu xanh nước biển, trong mỗi gói nhựa đều chứa chất bột màu trắng, nghi là chất ma túy Heroine, niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Lương Thế T”; 01 xe mô tô biển kiểm soát 12V1-071.48 nhãn hiệu Honda wave màu đen, xe cũ, đã qua sử dụng; 2.200.000 đồng, niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu bằng chữ viết tay “Tiền Lương Thế T”; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 02 sim Viettel.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lương Thế T tại thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Không phát hiện thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số: 273/KL-PC09, ngày 10/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,219 gam (đã trừ bì).

Tại Kết luận giám định số 341/KLGĐ-PC09 ngày 28/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam gồm:

2.200.000 (hai triệu hai trăm nghìn) đồng, trong gói niêm phong gửi giám định đều là tiền thật.

Tại bản cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 26/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng đã truy tố bị cáo Lương Thế T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Lương Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình, như cáo trạng đã nêu. Bị cáo thấy việc làm của mình là sai vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Lương Thế T, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lương Thế T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định; số tiền 2.200.000 đồng là tiền chung của vợ bị cáo đi làm thuê mà có, trả lại cho chị Nông Thị H; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, trả lại cho bị cáo; chiếc xe mô tô là tài sản của bà Triệu Thị L, trả lại cho bà Triệu Thị L; đề nghị truy thu số tiền bị cáo bán ma túy mà có là 200.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa, nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và đề nghị về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người dân tộc thiểu số. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo mức án thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị. Bị cáo không có tài sản gì, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

Bị cáo Lương Thế T thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa bị cáo Lương Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định. Khoảng 16 giờ ngày 07/9/2020 bị cáo đi đến cửa khẩu T, huyện Văn Lãng mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời. Bị cáo mua với 01 người đàn ông lái xe ôm khoảng 32 tuổi (không biết tên tuổi địa chỉ), 1.000.000 đồng được 01 túi nilon màu trắng, bên trong có 10 gói giấy chứa chất ma túy, mang về nhà xẻ ra cho vào các ống nhựa màu xanh nước biển được 15 gói. Từ ngày 07/9/2020, đến khoảng 07 giờ ngày 08/9/2020 bị cáo sử dụng đi 06 gói ma túy, bán được 02 gói cho 02 người nghiện được 200.000 đồng, còn 07 gói ma túy. Ngày 08/9/2020 bị cáo điều khiển xe mô tô đi xuống thị trấn N, huyện V, mục đích đến nhà hoang ở thôn Thâm Cun, thị trấn N, huyện V để bán ma túy cho người nghiện, thì bị Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng phát hiện bắt quả tang. Hành vi phạm tội của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định của Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lương Thế T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tại địa phương và xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, tiếp tay làm lan truyền tệ nạn nghiện hút ma túy, gây nguy hại rất lớn cho xã hội về nhiều mặt, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo bị nhân dân lên án mạnh mẽ và bị pháp luật nghiêm cấm. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa giáo dục chung. Tuy vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét đánh giá về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ, là người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lương Thế T không tài sản gì (thể hiện tại kết quả xác minh ngày 29/10/2020). Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông lái xe ôm khoảng 32 tuổi, bán ma túy cho bị cáo tại cửa khẩu T, Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Lãng đã tiến hành xác minh, nhưng không rõ lai lịch, nên không làm rõ được.

[7] Đối với bà Triệu Thị L là mẹ của bị cáo mua chiếc mô tô và vợ bị cáo là Nông Thị H có số tiền 2.200.000 là tiền chung của vợ đi làm thuê mà có đưa cho bị cáo đi mua đồ sơ sinh. Nhưng bà Triệu Thị L và chị Nông Thị H đều không biết bị cáo Lương Thế T lấy tiền và lấy xe mô tô đi mua ma túy, nên không liên quan.

[8] Theo bị cáo khai được bán ma túy cho 02 người nghiện được 200.000 đồng, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người mua ma túy. Nên không xác định được người mua ma túy, chưa đủ căn cứ bị cáo mua bán nhiều lần.

[9] Về vật chứng của vụ án Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với số ma túy hoàn lại mẫu vật sau giám định niêm phong trong 01 phong bì thư có ghi chữ “QT Lương Thế T” (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh T. Bên trong có 01 túi nilon (cũ) đựng 0,172 gam Heroine và toàn bộ các vỏ bao gói, là vật Nhà cấm tàng trữ, cấm lưu hành, tịch thu, tiêu hủy; đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 12V1-071.48, là xe của bà Triệu Thị L mua, nên trả lại cho bà Triệu Thị L; đối với số tiền 2.200.000 đồng, niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu bằng chữ viết tay “Tiền Lương Thế T”, là tiền chung của vợ bị cáo, nên trả lại cho chị Nông Thị H; đối với 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, trả lại cho bị cáo.

[10] Đối với số tiền 200.000 đồng, theo bị cáo khai là tiền do bán ma túy cho mà có, cần truy thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[11] Ý kiến Kiểm sát viên, người bào chữa tại phiên tòa, đề nghị mức án đối với bị cáo, xử lý vật chứng, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Thế T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lương Thế T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 9 năm 2020.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy gồm: Toàn bộ số ma túy hoàn lại mẫu vật sau giám định niêm phong trong 01 phong bì ghi chữ “QT Lương Thế T” (cũ) có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh T; trợ lý giám định và các hình của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 túi nilon (cũ) đựng 0,172 gam Heroine và toàn bộ các vỏ bao gói.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, số IMEL1 có bốn số cuối là 4850, bên trong lắp 02 sim Viettel.

Trả lại cho bà Triệu Thị L: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen, đã qua sử dụng, không có gương chiếu hậu bên phải, biển kiểm soát 12V1- 071.48, số máy HC12F-5588692.

Trả lại cho chị Nông Thị H: 2.200.000 (hai triệu hai trăm nghìn) đồng, niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu chữ viết tay “Tiền Lương Thế T”.

(Các vật chứng trên được ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn).

Truy thu của bị cáo Lương Thế T 200.000 (hai trăm nghìn) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lương Thế T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về