Bản án 85/2019/HSST ngày 29/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 85/2019/HSST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom đưa ra xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1986 tại Quảng Ngãi. HKTT: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi. Chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Công nhân. Con ông Nguyễn H, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1964; Có vợ: Trần Thị Thu S, sinh năm 1989, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: chưa. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)

2. Nguyễn Văn H, sinh năm 1987 tại Long An. HKTT: Ấp 2, xã B, huyện M, tỉnh Long An. Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 5/12. Nghề nghiệp: Công nhân. Con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1945 và bà Hoàng Ngọc C, sinh năm 1953. Có vợ: Lý Thị N, sinh năm 1993 và 01 con sinh năm 2011.Tiền án, tiền sự: chưa. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

3. Trần Hoàng P, sinh năm 1993 tại Đồng Nai. Trú tại: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Trình độ học vấn: 7/12. Nghề nghiệp: Làm thuê. Con ông Trần Bá K (đã chết) và bà Nguyễn Thị M (đã chết). Có vợ: Đinh Vũ Thủy T, sinh năm 1993 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 21/02/2012 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 15/12/2015. Tiền sự: không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

- Bị hại: Công ty TNHH H. Địa chỉ: Khu công nghiệp S, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Do bà Lầu Cùn L, sinh năm 1978 – Chức vụ: Giám đốc công ty là người đại diện theo pháp luật. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đinh Vũ Thủy T1, sinh năm 1993. Trú tại: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

- Người làm chứng: Chị Lê Thị Ph, sinh năm 1981. (Vắng Mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H là công nhân công ty TNHH H tại khu công nghiệp S thuộc ấp S, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Do không có tiền tiêu xài nên vào khoảng 21 giờ ngày 02/01/2019, trong lúc đang làm việc tại công ty thì T rủ H cắt trộm dây điện của công ty bán lấy tiền tiêu xài, H đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, lợi dụng lúc công nhân làm tăng ca ra về hết và không có bảo vệ trông coi nên T điều khiển xe nâng cùng H mang theo 01 kìm cộng lực (là tài sản của công ty) đến khu vực nhà kho công ty để cắt trộm dây điện. Tại đây, T điều khiển cho càng xe nâng lên cao rồi đứng trên càng nâng dùng kìm cộng lực cắt 04 đầu sợi dây điện ở trên tường nhà kho, sau đó điều khiển xe nâng đến đầu dây bên kia để H đứng lên càng xe nâng dùng kìm cộng lực cắt 04 đầu dây điện còn lại (mỗi sợi dây điện dài 12 mét, bên trong gồm nhiều sợi nhỏ bằng kim loại đồng). T và H cắt 04 đoạn dây điện thành 08 đoạn nhỏ rồi cuộn tròn cho vào bao tải lấy trong công ty và đem đến khu vực lò hơi nơi T và H làm việc cất giấu. Đến khoảng 04 giờ ngày 03/01/2019, T và H sử dụng xe nâng chở bao tải chứa dây điện trộm cắp được đến khu vực tường rào phía sau công ty và ném bao tải chứa dây điện ra ngoài. Sau đó T gọi điện thoại cho Trần Hoàng P nói cho P biết vừa cắt trộm được dây điện trong công ty và rủ P đến đem đi bán thì P đồng ý. P điều khiển xe mô tô biển số XXXX – XXXXX đến khu vực tường rào phía sau công ty lấy bao tải có chứa dây điện và đem đến tiệm thu mua phế liệu ở ấp S, xã B, huyện T bán cho chị Lê Thị Ph 24,5 kg lõi dây điện bằng kim loại đồng được số tiền 3.300.000 đồng. T chia cho H 1.500.000 đồng, chia cho P 500.000 đồng và số tiền còn lại T cất giữ để tiêu xài. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản công ty H đã trình báo Đồn công an khu công nghiệp Hố Nai – Sông Mây. Qua xác minh, làm việc với các đối tượng Nguyễn Thanh T, Nguyễn Văn H và Trần Hoàng P thì T, H và P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đồn công an khu công nghiệp Hố Nai – Sông Mây đã chuyển các đối tượng cùng toàn bộ hồ sơ cho Công an huyện Trảng Bom để thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 25/02/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Trảng Bom kết luận: 03 đoạn dây điện, mỗi đoạn dài 12 mét, có vỏ bọc bằng nhựa màu vàng, đỏ, xanh, đường kính mỗi đoạn 1,6 cm, bên trong mỗi đoạn dây điện có 19 sợi dây bằng kim loại đồng mỗi sợi có đường kính 2,5 mm và 01 đoạn dây điện dài 12 mét, có vỏ bọc bằng nhựa màu đen, đường kính 1,2 cm, bên trong có 19 sợi dây bằng kim loại đồng mỗi sợi có đường kính 1,9 mm có tổng trị giá là 12.000.000 đồng.

Ngày 06/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thanh T, Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” và Trần Hoàng P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” để điều tra. Quá trình điều tra T, H và P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 kìm cộng lực dài khoảng 50 cm; 24,5 kg lõi dây điện bằng kim loại đồng cùng vỏ bọc bằng nhựa; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2, số thuê bao 0933.156.076; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, số thuê bao 0914.188.352; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6300, số thuê bao 0853.228.486 và xe mô tô biển số XXX – XXXXX.

Xử lý vật chứng: Do người bị hại đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu nhận lại tài sản bị mất nên ngày 18/4/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các bị cáo 24,5 kg lõi dây điện bằng kim loại đồng cùng vỏ bọc bằng nhựa; trả lại 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6300, số thuê bao 0853.228.486 cho Nguyễn Văn H; trả lại 01 kìm cộng lực bằng thép dài 80 cm cho công ty H.

Xe mô tô biển số XXX – XXXXX là tài sản riêng của chị Đinh Vũ Thủy T1, việc Trần Hoàng P sử dụng xe mô tô trên vào việc phạm tội chị T1 không biết nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho chị T1 là có căn cứ.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2, số thuê bao 0933.156.076 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, số thuê bao 0914.188.352 các bị can T và P sử dụng làm phương tiện phạm tội. Áp dụng Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị Tòa án tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 xe nâng các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản của công ty sử dụng trong việc sản xuất nên Cơ quan điều tra không thu giữ.

Về dân sự: Các bị cáo T, H và P đã tự nguyện bồi thường cho công ty H số tiền 12.000.000 đồng (trị giá số dây điện bị cắt trộm) và bồi thường cho chị Lê Thị Ph số tiền 3.300.000 đồng, đại diện công ty H và chị Lê Thị Ph đã nhận số tiền trên và không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số: 95/CT/VKS-HS ngày 06/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Trần Hoàng P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quan điểm truy tố cũng như phân tích về hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Căn cứ vào khoản 1 điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt các bị cáo: Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H từ 06 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án.

Căn cứ vào khoản 1 điều 323, các điểm i , s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hoàng P từ 06 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Về dân sự: Đã giải quyết xong, đề nghị tòa không đề cập Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng. Qua đó, đã có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 23 giờ ngày 02/01/2019 tại khu vực nhà kho của công ty TNHH H thuộc khu công nghiệp S, ấp S, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút trộm cắp 04 đoạn dây điện, mỗi đoạn dài 12 mét, bên trong gồm nhiều sợi nhỏ bằng kim loại đồng có tổng trị giá tài sản là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng).

Hành vi nêu trên của Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Trần Hoàng P mặc dù biết rõ số dây điện trên là do Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn H trộm cắp của công ty mà có, mặc dù không hứa hẹn trước nhưng P vẫn đồng ý giúp T và H đem tài sản trộm cắp được đến bán cho chị Lê Thị Ph được số tiền 3.300.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Trần Hoàng P đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 điều 323 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo thì thấy: Trong vụ án này tuy các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội nhưng ở mức đồng phạm giản đơn. Bị cáo T là người khởi xướng, rủ rê bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội, do vậy cần có mức hình phạt cho bị cáo T cao hơn bị cáo H.

[2] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo T, H là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo T và H. Bị cáo P được áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, đa số các bị cáo là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các con còn nhỏ. Áp dụng Điều 65 BLHS có căn cứ chấp nhận giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo T, H được hưởng chế độ án treo, xử cho bị cáo P mức án dưới khung hình phạt là phù hợp.

[4] Về dân sự: Đã giải quyết xong, tại phiên tòa không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xe mô tô biển số XXX – XXXXX là tài sản riêng của chị Đinh Vũ Thủy T1, việc Trần Hoàng P sử dụng xe mô tô trên vào việc phạm tội chị T1 không biết nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho chị T1 là phù hợp.

[6] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J2, số thuê bao 0933.156.076 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, số thuê bao 0914.188.352 các bị cáo T và P sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Đối với 01 xe nâng các bị cáo T, H sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản của công ty sử dụng trong việc sản xuất nên Cơ quan điều tra không thu giữ.

[8] Đối với chị Lê Thị Ph không biết số dây điện do Trần Hoàng P đem đến bán là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom không xử lý.

[9] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với một phần nhận định của Hội đồng xét xử.

[10] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; Điều 50, Điều 58; Các điểm b, i, s khoản 1, Điều 51, điều 65 - Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo T cho UBND xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án Hình sự.

Giao bị cáo H cho UBND xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng chế độ án treo cố ý vi phạm 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo pH chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo;

2. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 323; Điều 50; các điểm b, s khoản 1, Điều 51, điều 54 - Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Hoàng P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt bị cáo Trần Hoàng P 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị bắt để chấp hành hình phạt tù.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Văn H, Trần Hoàng P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2019/HSST ngày 29/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:85/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về