Bản án 85/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 85/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh H - sinh năm: 199 ; tại: Ninh Hòa, Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn P, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh H, sinh năm: 197 và bà: Dương C, sinh năm: 197 ; tiền  án: Tại Bản án số 63/2015/HS-ST ngày 10/6/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/8/2015; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 09/2017/HS-ST ngày 27/02/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/8/2018; bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

+ Bị hại:

- Bà Huỳnh M, sinh năm 196

Địa chỉ: Thôn P, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Nguyễn L, sinh năm 196x

Địa chỉ: Tổ dân phố H, phường N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trần M1, sinh năm 197

Địa chỉ: Thôn B, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Lương T, sinh năm 199x

Địa chỉ: Thôn H, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Phùng T, sinh năm 199x

Địa chỉ: Thôn H, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa

- Ông Phùng X, sinh năm: 196x

Địa chỉ: Thôn H, xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh H đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, nhưng để có tiền tiêu xài khoảng 23 giờ ngày 20/12/2016, H rủ Phùng T đi lòng vòng các nhà dân thuộc thôn P, xã N, thị xã Ninh Hòa để tìm tài sản chiếm đoạt. Khi đến nhà bà Huỳnh M, cả hai phát hiện sau nhà có một giỏ tre nhốt 06 con gà (04 con gà mái, 02 con gà trống) thì cả hai đi qua rào vào trong, H lấy một bao tải cho T bắt gà bỏ vào rồi mang về nhà H cất giấu, đến sáng hôm sau H và T mang 04 con gà mái đến bán cho bà Trần M1 ở thôn B, xã N lấy 290.000 đồng chia nhau tiêu xài, 02 con gà trống H và T mang đến nhà bạn làm thịt ăn.

Cũng với thủ đoạn tương tự, khoảng 22 giờ ngày 22/12/2016 Đinh H, Phùng T, Lương T1 rủ nhau đến nhà ông Nguyễn L thuộc tổ dân phố H, phường N, thị xã Ninh Hòa bắt trộm gà, đến nơi H, T1 đứng ngoài cảnh giới, T trèo rào vào trong bắt 01 con gà trống trong chuồng đưa về nhà H cất giấu, đến sáng hôm sau mang đến nhà bà Trần M1 bán lấy 210.000 đồng chia nhau tiêu xài.

Tại kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐG ngày 13/9/2017; số 85/KL- HĐĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ninh Hòa kết luận 06 con gà của bà Huỳnh M có tổng giá trị là 833.000 đồng; 01 con gà của ông Nguyễn L có giá trị là 224.000 đồng.

Tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Đinh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1 Điều 46, Điều 31 và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Đinh H từ 12 – 15 tháng cải tạo không giam giữ.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại: Bà Huỳnh M, ông Nguyễn L; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần M1, ông Phùng T, ông Lương T1, ông Phùng X vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

Bị cáo Đinh H không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo H nói lời sau cùng trước khi nghị án: “Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho để bị cáo có cơ hội làm lại”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục: Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Đinh H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung trên và như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Đinh H là người bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà tiếp tục có hành vi lén lút trộm cắp tài sản 06 con gà của bà Huỳnh M vào ngày 20/12/2016 có tổng giá trị là 833.000 đồng theo Kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐG ngày 13/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ninh Hòa và trộm 01 con gà trống của ông Nguyễn L vào ngày 22/12/2016 có giá trị là 224.000 đồng theo Kết luận định giá tài sản số 85/KL-HĐĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ninh Hòa. Mặc dù, khoản 1 của Điều luật này quy định giá trị tài sản bị trộm cắp từ 2 triệu đồng trở lên mới cấu thành tội phạm nhưng Đinh H đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Do đó, có cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Đinh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Bị cáo hai lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản do vậy cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[2.2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây tác động xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây bất ổn trong đời sống quần chúng nhân dân; chỉ vì lười lao động, tham lam, tư lợi, thích hưởng thụ bằng tài sản, công sức của người khác; không chịu học hành để có nghề nghiệp ổn định, làm ăn lương thiện để có nguồn thu nhập hợp pháp mà lén lút vào nhà để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tích cự giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm. Các tình tiết này được quy định tại điểm b, g, p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung tội phạm. Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại: Bà Huỳnh M, ông Nguyễn L; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần M1, ông Phùng T, ông Lương T1, ông Phùng X vắng mặt nên tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

[4] Về án phí: Bị cáo Đinh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p, q khoản 1 Điều 46, Điều 31 và điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Căn cứ Điều 136, Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Đinh H 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn thi hành án tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa nhận được quyết định thi hành án và bản sao án.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú trong việc giám sát, giáo dục. Trong trường hợp người được hưởng án cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu.

Về án phí: Buộc bị cáo Đinh H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:85/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về