TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 85/2018/HS-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2018/QĐXX-HSST ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn G, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1984 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Ấp GT, xã BM, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Cao Đài; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1951 và bà Đặng Thị H, sinh năm 1958; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1983; Con: Có 01 người sinh năm 2010; Tiền án: Không;
- Tiền sự: Có 01 tiền sự.
+ Quyết định số 309/QĐ-XPHC ngày 31-7-2018 của Công an Phường M, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G số tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã nộp phạt.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13-8-2018, chuyển tạm giam từ ngày 16-8-2018 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn G sử dụng ma túy từ tháng 5 năm 2018 nên thường xuyên tìm mua ma túy của người đàn ông thường gọi là “AB” không rõ họ tên, địa chỉ để sử dụng. Khoảng 7 giờ ngày 13-8-2018, Giàu đón xe ôm đến khu vực bệnh viện đa khoa CVC, thuộc huyện HT, tỉnh Tây Ninh tìm gặp “AB” mua 400.000 đồng ma túy cất giấu bịch ma túy trong bóp và bỏ vào túi quần sau bên phải rồi đón xe ôm đến quán cà phê KN để uống nước và tìm chỗ sử dụng ma túy. Không tìm được chỗ để sử dụng ma túy, G điện thoại cho anh Hoàng Công T, sinh năm 1996, ngụ khu phố B, phường M, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh xin đến phòng trọ của anh T để ngủ. Sau đó, G gặp anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1997, ngụ ấp LK, xã LTT, huyện HT, tỉnh Tây Ninh và nhờ anh A chạy xe chở đến phòng trọ số 7 của anh T ở nhà cho thuê tháng KL. Đến 10 giờ 15 phút cùng ngày, Công an phường B, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh kiểm tra phòng trọ phát hiện G cất giấu bịch ma túy trong bóp ở túi quần sau bên phải nên lập biên bảnbắt người phạm tội quả tang.
Tang vật thu giữ gồm: 01 bịch nylon bên trong có chứa tinh thể rắn trong suốt, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, 01 cái bóp màu đen.
Kết luận giám định số 964/KL-KTHS ngày 15/8/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 01 (một) bịch nylon (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; loại Methamphetamine; Khối lượng 0,1827 gam (không phẩy một tám hai bảy gam).
Sau khi giám định, 01 bì thư niêm phong số 964/KL-KTHS của Phòng KTHS Công an tỉnh Tây Ninh bên trong có 01 bịch nylon chứa 0,1384 gam Methamphetamine (ký hiệu M); 01 điện thoại di động Iphone 4 màu đen số sêri C8QL5B5CDP0V, 01 bóp da màu đen đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN, tỉnh Tây Ninh.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN, Nguyễn Văn G đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Đối với người đàn ông bán ma túy cho G không rõ họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Với nội dung trên, Cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 18 tháng 9 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo quy định.
Bị cáo G thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát và nói lời sau cùng “Bị cáo ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn G đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp biên bản phạm tội quả tang, thời gian địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường và phù hợp với lời khai của những người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định:
Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 13-8-2018, tại phòng trọ số 7, nhà cho thuê tháng KL, thuộc hẻm 59, đường CMTT, khu phố H, phường B, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh, Công an phường B, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Nguyễn Văn G cất giấu trong bóp ở túi quần sau bên phải 01 bịch ma túy, là loại Methamphetamine, khối lượng là 0,1827 gam để sử dụng.
Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Từ đó khẳng định cáo trạng số 91/CT-VKSTP ngày 18 tháng 9 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo G là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
Hành vi của bị cáo G là nguy hiểm cho xã hội với tính chất nghiêm trọng. Ma túy là chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, cấm sử dụng, mua bán dưới mọi hình thức, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác… gây mất trật tự trị an địa phương, gây tác hại lớn đến nhiều mặt trong xã hội. Do vậy cần xét xử nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
[3] Về nhân thân: Bị cáo G có nhân thân xấu, có 01 tiền sự theo Quyết định số 309/QĐ-XPHC ngày 31-7-2018 Công an Phường M, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh, xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy” nhưng lại tiếp tục phạm tội.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và có thái độ ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không còn tài sản nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Đối với 01 bì thư niêm phong vụ số 964/KL-KTHS của Phòng KTHS Công an tỉnh Tây Ninh, bên trong có 01 bịch nylon chứa 0,1384 gam Methamphetamine (ký hiệu M) chất ma túy còn lại sau khi giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 cái bóp màu đen bị cáo Giàu dùng để đựng ma túy là phương tiện, công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động Iphone 4 màu đen số sêri C8QL5B5CDP0V không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Giàu.
Các vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19-9-2018.
[8] Đối với người tên AB không rõ lai lịch bán ma túy cho G chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.
[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo G phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[10] Bị cáo G được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
[11] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 13-8-2018.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong vụ số 964/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, bên trong có 01 bịch nylon chứa 0,1384 gam Methamphetamine (ký hiệu M) chất ma túy còn lại sau khi giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.
- Tịch thu tiêu hủy 01 cái bóp màu đen bị cáo G dùng để đựng ma túy.
- Trả lại cho bị cáo G 01 điện thoại di động Iphone 4 màu đen số sêri C8QL5B5CDP0V.
Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19-9-2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Văn G phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Ðiều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Ðiều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 85/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 85/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về