Bản án 84/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 84/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 91/2020/TLHS-ST ngày 03 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Q, sinh ngày 08/8/1977 tại Tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKHKTT: tổ 36 phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Phòng 203 Chung cư 1C Phong Bắc, tổ 11 phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Sửa xe; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Q1tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C và bà Dương Thị H. Có 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 1998.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 21/5/2019 bị Công an phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, TP.

Đà Nẵng xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (nộp phạt ngày 27/6/2019).

Tiền sử: Ngày 12/12/1997 bị TAND quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng xử phạt 03 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Đình Q1, sinh ngày 02/9/1991 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: tổ 02 thôn Q Ch, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ 74 phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Q1tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình T và Trịnh Thị Ngọc C;

Tiền án: Không.

Tiền sử: Ngày 23/4/2009 bị TAND quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 22/4/2010 bị TAND quận Hải Châu xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 28/3/2012 bị UBND TP. Đà Nẵng xử lý hành chính biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Ngày 24/4/2015 bị TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng xử lý hành chính biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Ngày 13/4/2017 bị UBND phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng xử lý hành chính biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Tiền sự:

Ngày 24/7/2018 bị TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng xử lý hành chính biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

( Hiện đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 31/2020/QĐ-TA ngày 17/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng). Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Anh Phan Q1V, sinh năm 1973; trú tại: số 60 đường Bình Th, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Lê Chiêu Kh, sinh năm 1985; trú tại: 611/2 đường Núi Th, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Ông Lê Văn H, sinh năm 1971; trú tại: số 309/1 đường Lê D, phường T, quận Th, thành phố Đà Nẵng.Vắng mặt.

+ Ông Văn Bá M, sinh năm 1986; trú tại: tổ 189 phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng.Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Cao L, sinh năm 1997; trú tại: số 249 đường H, quận L, thành phố Đà Nẵng.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 30/5/2020, Nguyễn Đình Q1 gặp Nguyễn Văn Q tại quán cà phê gần khu vực bệnh viện Lao, TP Đà Nẵng. Trong lúc nói chuyện, Q và Q1nảy sinh ý định cùng đi bắt trộm chó cảnh để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Đến tối ngày 31/5/2020, Q1mượn điện thoại của anh Lê Chiêu Kh liên lạc với Q rủ nhau đi trộm.

Đến 04h00 ngày 01/6/2020, Q và Q1hẹn gặp nhau tại ngã tư đường Nguyễn Hữu Thọ và đường Phan Đăng Lưu, Q điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX BKS 43F1-338.62 đi từ chung cư Phong Bắc, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ đến điểm hẹn gặp Quốc. Sau đó, Q chở Q1vào đường Bình Thái 3, khi đến trước số nhà 60 đường Bình Thái 3, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng của anh Phan Q1V thì Q dừng xe lại và nói Q1đi vào trong sân nhà để bắt trộm chó còn Q đứng ngoài cảnh giới. Q1xuống xe, trèo qua khoảng trống trước cổng tường gạch vào trong sân nhà. Q1thấy ở góc sân có một lồng sắt bên trong nhốt một con chó, loại chó phốc, màu xám nên đi đến dùng tay mở cửa lồng sắt và bắt con chó đem đi ra ngoài thông qua khoảng trống trên tường. Q1đưa con chó cho Q để tại gác chân người lái phía trước của xe mô tô, Q chở Q1và con chó vừa bắt trộm được đi tìm nơi tiêu thụ. Cả hai đến gặp để hỏi bán con chó cho anh Lê Văn H nhưng anh Hòa không đồng ý mua nên Q1và Q mang con chó về lại chung cư trên đường Nguyễn Khánh Toàn. Tại đây, Q giao con chó cho Q1và hỏi mượn Q1500.000 đồng để mua vật dụng đi làm, sau này nếu bán con chó thì tính sau. Q1đồng ý và đưa cho Q mượn 500.000 đồng. Q điều khiển xe mô tô về nhà đi làm, Q1mang con chó lên chung cư và thuê anh Lê Chiêu Kh tắm con chó. Đến khoảng 10h00 cùng ngày, Q1gặp anh Khánh để lấy lại con chó và điều khiển xe mô tô mang lên nhà của Q tại chung cư Phong Bắc, Hòa Thọ Đông, Cẩm Lệ, Đà Nẵng. Tại đây, Q nói Q1để con chó lại cho Q và Q sẽ chia thêm cho Q1800.000 đồng thì Q1đồng ý. Q đưa cho Q1800.000 đồng, Q1giao con chó cho Q. Q mang con chó nhốt vào phòng tắm của phòng 203, khu 1C, chung cư Phong Bắc và tiếp tục đi làm. Đến trưa cùng ngày, Q về nhà thì nghe con trai là Nguyễn Tấn Đạt thông báo là con chó đã được Cơ quan công an đến tạm giữ nên Q gọi điện thoại cho Q1đòi lại số tiền 800.000 đồng nhưng không được. Q trực tiếp đến gặp Q1thì Q1nói đã tiêu xài hết 700.000 đồng, còn lại 100.000 đồng. Sau đó, Q1giao cho Q 100.000 đồng còn lại. Tại bản kết luận định giá tài sản số 36 ngày 02/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cẩm Lệ kết luận: 01 con chó cảnh loại phốc sóc màu xám trị giá 3.500.000 đồng.

Từ những tình tiết nêu trên, tại Cáo trạng số 89/CT-VKSCL ngày 14/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ thực hiện quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội là vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù và áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Q1 mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Sau khi định giá phục vụ điều tra, Cơ quan điều tra đã trao trả lại cho chủ sở hữu là anh Phan Q1V, anh Việt không có yêu cầu bồi thường và có đơn bãi nại đối với Nguyễn Đình Q1 và Nguyễn Văn Q.

Đối với xe mô-tô hiệu Yamaha Nouvo LX, BKS 43F1-338.62 do anh Văn Bá M là chủ sở hữu. Tháng 7/2017, anh Mạnh bán lại xe trên cho người khác nhưng không làm thủ tục sang tên, đổi chủ, sau đó, xe trên được mua bán qua nhiều người. Đến ngày 21/02/2020, Nguyễn Văn Q mua lại xe từ anh Nguyễn Cao L và sử dụng làm công cụ phạm tội. Do chưa có cơ sở xác định được nguồn gốc sở hữu qua quá trình mua bán nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra, xử lý sau là đúng pháp luật.

Đối với Nguyễn Tấn Đạt, anh Lê Văn H và anh Lê Chiêu Kh không biết con chó là tài sản do các bị can phạm tội mà có và không biết Q1mượn điện thoại để rủ rê trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Đạt, Hòa, Khánh là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với vật chứng: 800.000 đồng của của Nguyễn Văn Q và Nguyễn Đình Q1 tự nguyện giao nộp chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ tiếp tục tạm giữ phục vụ xét xử.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 đã khai nhận hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ truy tố. Các bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt.

Về nói lời sau cùng: Các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để có cơ hội sửa chữa sai lầm và sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cẩm Lệ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố, xét xử của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát, lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng thu hồi được cũng như phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện tại hồ sơ vụ án, nên HĐXX có đủ cơ sở xác định: Do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 04h 00 phút ngày 01/6/2020 các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 đã lén lút đột nhập vào nhà anh Phan Q1V tại số 60 đường Bình Th, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng trộm cắp 01 con chó cảnh, loại chó phóc trị giá 3.500.000đ (theo Kết luận định giá tài sản số 36/KL-ĐGTS ngày 02/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản quận Cẩm Lệ).

Do đó, hành vi này của các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:

Các bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, có nhận thức pháp luật và xã hội nhất định, nhưng bị cáo lại bất chấp hậu quả, coi thường kỷ cương pháp luật để trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của các bị cáo Q và Q1không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn thể hiện sự táo bạo, liều lĩnh, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội.

Về vai trò: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công và cấu kết chặt chẽ, trong đó bị cáo Q1là người trực tiếp thực hành vi trộm cắp tài sản. Ngoài ra, bị cáo Q1là người có nhân thân xấu bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội” Trộm cáp tài sản” vào tháng 4 năm 2009, bị TAND quận Hải Châu xử phạt 15 tháng tù về tội” Trộm cắp tài sản” vào tháng 4 năm 2010, đã nhiều lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, có 01 tiền sự là bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang áp dụng biệp pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng theo Quyết định số 23/QĐ-TA ngày 24/7/2018, chấp hành xong ngày 16/7/2019 . Tuy nhiên, bị cáo Q1không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp. Bị cáo Q là người tiếp sức, đứng ngoài cảnh giới cho bị cáo Q1trong việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo Nguyễn Văn Q là người có nhân thân xấu đã từng bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 03 tháng tù về tội” Gây rối trật tự công cộng” vào ngày 12/12/1997, ngoài ra bị cáo cũng có 01 tiền sự là vào ngày 21/5/2019 bị Công an phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ xử phạt 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo Q không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp. Do đó, HĐXX xét thấy cần phải xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo, nhằm giáo dục các bị cáo nói riêng và góp phần răn đe, đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Hơn nữa người bị hại là anh Phan Q1V đã nhận lại con chó phốc, anh Việt không có yêu cầu bồi thường và có đơn bãi nại đối với Nguyễn Đình Q1 và Nguyễn Văn Q. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét khi lượng hình đối với các bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

[4.1] Người bị hại là anh Phan Q1V đã nhận lại con chó phốc, anh Việt không có yêu cầu các bị cáo Nguyễn Đình Q1, Nguyễn Văn Q bồi thường gì thêm. Do đó, HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với xe mô-tô hiệu Yamaha Nouvo LX, BKS 43F1-338.62 do anh Văn Bá M là chủ sở hữu. Tháng 7/2017, anh Mạnh bán lại xe trên cho người khác nhưng không làm thủ tục sang tên, đổi chủ, sau đó, xe trên được mua bán qua nhiều người. Đến ngày 21/02/2020, Nguyễn Văn Q mua lại xe từ anh Nguyễn Cao L và sử dụng làm công cụ phạm tội. Do chưa có cơ sở xác định được nguồn gốc sở hữu qua quá trình mua bán nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra, xử lý sau là đúng pháp luật, nên HĐXX không xem xét.

Đối với Nguyễn Tấn Đạt, anh Lê Văn H và anh Lê Chiêu Kh không biết con chó là tài sản do các bị can phạm tội mà có và không biết Q1mượn điện thoại để rủ rê trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Đạt, Hòa, Khánh là có căn cứ, đúng pháp luật nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Đối với số tiền 800.000 đồng của Nguyễn Văn Q và Nguyễn Đình Q1 tự nguyện giao nộp chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ . Đây là tiền riêng của các bị cáo cần trả lại cho các bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Tại phiên tòa, mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ đề nghị áp dụng cho bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 là có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo như đã phân tích nêu trên, nên HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đình Q1, Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình Q1 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

1.1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự .

Tuyên:

Tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án đối với số tiền 800.000 đồng của của Nguyễn Văn Q và Nguyễn Đình Q1 tự nguyện giao nộp (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ngày 25/12/2020).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình Q1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:84/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về