TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 259/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 199/2017/HSST ngày 20/7/2017 đối với bị cáo:
TĂNG MINH C, giới tính: Nam; sinh: 09/9/1993; nơi sinh: tại tỉnh B; thường trú: xã C, huyện P, tỉnh Bình Định; chỗ ở: không nơi nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Tăng Văn C1 và bà Nguyễn Thị D; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giam: 24/5/2017 (có mặt).
Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Mỹ N; sinh: 1988
Thường trú: phường A, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.
Chỗ ở: phường X, quận T, Tp.Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 06 giờ 10 ngày 24/5/2017, Tăng Minh C đi bộ từ chân cầu vượt S, thuộc phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương để đến đường Đ, phường L, quận T, Tp.Hồ Chí Minh. Khi đến đường M, phường L, quận T, Tp.Hồ Chí Minh, C phát hiện chiếc xe mô tô biển số 60B2-180.52 của chị Nguyễn Thị Mỹ N đang dựng tại bãi đất trống gần nhà số A, không có người trông coi, nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe mô tô trên. C lén lút đi đến dắt chiếc xe mô tô biển số 60B2-180.52 của chị N đi ra đường Đ, đi được khoảng 40m thì bị chị N phát hiện. C bỏ xe chạy bộ thì bị quần chúng nhân dân đuổi theo bắt giữ, đưa về Công an phường L, quận T lập biên bản người phạm tội quả tang.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, C đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.
Kết quả định giá tài sản số 294 ngày 25/5/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức, kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 60B2-180.52, trị giá 2.500.000đ.
Vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô biển số 60B2-180.52 (đã trả cho người bị hại) Về phần dân sự: Chị N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số 221/CT- VKS ngày 18/7/2017, Viện kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố bị cáo Tăng Minh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Tăng Minh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, đề nghị áp dụng điều luật đã truy tố, điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù.
Bị cáo C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố; bị cáo nhìn nhận trách nhiệm của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
XÉT THẤY
Xét lời khai nhận tội của bị cáo được xác định là khách quan phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ xác định: Ngày 24/5/2017, tại bãi đất trống cạnh nhà số A đường M, phường L, quận T, Tp.Hồ Chí Minh, bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô biển số 60B2-180.52 của chị Nguyễn Thị Mỹ N, tài sản chiếm đoạt trị giá 2.500.000đ, nên có căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định trừng trị tại Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật nghiêm trị, nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện xem thường sự trừng phạt của pháp luật. Việc truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt giá trị không lớn và đã thu hồi trả cho người bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, nên giảm cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác, nên không xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1- Tuyên bố bị cáo Tăng Minh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2- Áp dụng Khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo Tăng Minh C 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2017.
3- Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án để Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án.
Bản án 259/2017/HSST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 259/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về