Bản án 84/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 84/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1981; Nơi đăng ký HKTT: Khu phố Đ.H, phường H.L, thành phố B.N, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1953; Có vợ là Đỗ Thị T1, sinh năm 1983; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2012;

Tiền án: Có 01, ngày 22/6/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Đến ngày 23/02/2019 chấp hành sxong hình phạt tù trở về địa phương.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 18/4/2017 bị Công an thành phố Bắc Ninh xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền (1.500.000đồng) về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Cùng ngày 18/4/2017, chấp hành xong việc nộp phạt.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Ngô Văn K, sinh năm 1979 (Có mặt) Địa chị: Thôn Phúc Tinh, xã Tam Sơn, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố Đ.H, phường H.L, tp Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do ham chơi, lười lao động. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 18/12/2019, Nguyễn Văn T và Phạm Văn H đã đến địa bàn thôn P.T, xã T.S, thị xã T.S lén lút thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc máy cắt gỗ xách tay màu trắng, loại máy vuông 380, do Nhật Bản sản xuất đã qua sử dụng, trị giá 1.400.000đồng của anh Ngô Văn K và bán cho một người phụ nữ thu mua phế liệu không quen biết trên đường được số tiền 320.000 đồng. Số tiền này T và H đã cùng nhau sử dụng chi tiêu hết. Sau khi biết hành vi phạm tội của mình không thể trốn thoát được đến ngày 24/12/2019, T và H đã tự giác đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S đầu thú khai nhận về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 122/KL-HĐĐG ngày 26/12/2019 kết luận: 01 máy cắt gỗ, loại máy vuông 380, màu trắng, loại nhỏ có thể xách tay, hàng bãi, đã qua sử dụng có giá trị 1.400.000đồng.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 55/CT-VKS ngày 10/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo T khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 18/12/2019, bị cáo mượn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream, BKS 99G1 – 170.48 của ông Đỗ Quang P, sinh năm 1956 (là bố vợ bị cáo ở cùng khu phố) điều khiển trở Phạm Văn H, sinh năm 1987; HKTT: khu phố Đ.H, phường H.L, thành phố B.N, tỉnh Bắc Ninh đến địa bàn thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh với mục đích tìm kiếm xem có ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 8 giờ 30 phút cùng ngày khi bị cáo và H đi đến khu vực trước cửa lán xưởng sau khi ra đầu thú bị cáo mới biết của gia đình anh Ngô Văn K, sinh năm 1979 ở thôn P.T, xã T.S, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh thì thì phát hiện thấy của lán không khóa, trong lán xưởng không có người nên bị cáo điều khiển xe đi qua, đi lại trước cửa lán một lúc, sau đó dừng xe lại ở trước cửa lán đứng ngoài cảnh giới để H xuống xe đi vào bên trong lán. Khi H đến vị trí cửa ra vào thì nhìn thấy ngay tại phía sau cảnh cửa bên trái theo hướng đi vào có 01 chiếc máy cất gỗ xách tay, màu trắng, loại máy vuông (đã qua sử dụng). Thấy chiếc máy có giá trị và có thể trộm cắp được nên H liền tiến đến bê chiếc máy ra chỗ bị cáo đang chờ ngồi lên sau xe mô tô ôm giữ để bị cáo ngồi trước điều khiển xe chở mang đi tìm nơi tiêu thụ. Trên đường đi, bị cáo và H gặp và bán chiếc máy cắt cho 01 nguời phụ nữ thu mua phế liệu không quen biết được số tiền 320.000 đồng. Số tiền ngày bị cáo và H đã cùng nhau sử dụng chi tiêu hết. Chiếc xe mô tô sau đó bị cáo đã mang trả cho ông P. Sau khi biết hành vi trộm cắp đã bị phát hiện, ngày 24/12/2019 bị cáo và H đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.

Bị hại là anh Ngô Văn K trình bày. Vào ngày 18/12/2019 anh có bị mất một chiếc máy cắt gỗ, chiếc máy này anh mua trước khi bị mất khoảng 6 tháng, khi mua giá 2.800.000 đồng, anh đang sử dụng máy trong công việc làm thợ của anh. Nay chiếc máy không thu hồi được anh yêu cầu Tòa án xử nghiêm đối với bị cáo và buộc bị cáo và H phải bồi thường cho anh giá trị chiếc máy cắt gỗ như kết luận định giá.

Người liên quan Phạm Văn H trình bày tại cơ quan điều tra: Xác nhận có đi trộm cắp cùng bị cáo T như T đã khai tại cơ quan điều tra. H đồng ý cùng T bồi thường giá trị chiếc máy như kết quả định giá.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S duy trì công tố tại phiên tòa, sau khi đánh giá tính chất của vụ án, đánh giá các chứng cứ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 06 đến 09 tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 24/12/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc Nguyễn Văn T và Phạm Văn H phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho anh K giá trị chiếc máy cắt theo kết luận định giá Tài sản là 1.400.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với thời gian, địa điểm và các chứng cứ, T liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 18/12/2019 tại lán xưởng sản xuất đồ gỗ của gia đình anh Ngô Văn K ở thôn P.T, xã T.S, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Văn T và Phạm Văn H đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc máy cất gỗ xách tay, màu trắng, loại máy vuông 380 do Nhật Bản sản xuất đã qua sử dụng, trị giá 1.400.000 đồng. Mặc dù giá trị Tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng Nguyễn Văn T đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn, tạo ra tâm lý bất an trong nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo thành công dân tốt và có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm trong xã hội.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nhưng do tài sản trộm cắp dưới 2.000.000 đồng do đó tiền án trên được tính là căn cứ định tội nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Sau khi hành vi phạm tội của bị cáo bị phát giác, bị cáo đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc máy cắt gỗ, hiện tại bị cáo và người liên quan chưa bồi thường cho bị hại nên cần buộc T và H phải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho anh K tổng số tiền là 1.400.000 đồng.

Liên quan trong vụ án còn có đối tượng Phạm Văn H là người cùng T thực hiện hành vi trộm cắp chiếc máy cắt gỗ. Quá trình điều tra xác định, H chưa có tiền án tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản; tài sản cùng T trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng. Do chưa đủ căn cứ để khởi tố, truy tố cơ quan Công an thị xã T.S đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng đối với H là phù hợp.

Đối với chiếc xe moto biển số 99G1-170.48 do T và H sử dụng làm phương tiện để đi trộm cắp Tài sản. Qua trình điều tra, xác minh xác định chiếc xe mô tô là Tài sản hợp pháp của ông Đỗ Quang P, sinh năm 1956 (là bố vợ T). Ông P không biết việc T và H mượn xe sử dụng đi trộm cắp Tài sản, Cơ quan điều tra đã Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho ông Đỗ Quang P là có căn cứ.

Đối với người phụ nữ trên đường có hành vi mua chiếc máy cắt có nguồn gốc do T và H trộm cắp được. Quá trình điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ, lai lịch của người ngày, vì vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 584; Điều 585; Điều 587; Điều 589 Bộ luật dân sự. Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp Tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 7 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T và Phạm Văn H phải liên đới bồi thường cho anh Ngô Văn K số tiền 1.400.000đồng. Cụ thể T và H mỗi người phải bồi thường 700.000 đồng.

Kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo T và H mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể tự ngày được tống đạt bản án Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:84/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về