Bản án 84/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 84/2020/HS-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020, đối với bị cáo:

Trần Đức T, sinh năm 1997 tại Gia Lai, nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 11, Phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức Tuấn, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Thúy, sinh năm 1968; Hiện cha, mẹ bị cáo cư trú tại: Tổ 11, Phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/12/2019 đến ngày 02/01/2020, sau đó bị cáo bị tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Gia C, sinh năm 2004; địa chỉ: 66/15 Lý Chính Thắng, tổ 3, phường Chi Lăng, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Người đại diện theo pháp luật của anh Lê Gia C: Chị Đặng Thị Mỹ L, sinh năm 1986, địa chỉ: 66/15 Lý Chính Thắng, tổ 3, phường Chi Lăng, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Chị Đặng Thị Mỹ L, sinh năm 1986, địa chỉ: 66/15 Lý Chính Thắng, tổ 3, phường Chi Lăng, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Tất L, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ 04, Phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 23/12/2019, Q (không rõ nhân thân, lai lịch, là bạn quen biết ngoài xã hội của T) gọi điện thoại hẹn T đến khu vực ngã tư đường Wừu và đường Thống Nhất, phường IaKring, thành phố P, tỉnh Gia Lai, đưa ma túy đá để T và Q cùng nhau sử dụng.

Sau đó, T mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius biển số 81B2-618.36 của Lê Gia C (sinh năm 2004, trú tại Tổ 3, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai) đi đến nơi đã hẹn gặp Q và lấy 02 gói ma túy cất giấu vào túi áo khoác rồi đi chơi. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, Q điện thoại đến hẻm số 221 đường H, Phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai để cùng với Q tìm nơi sử dụng ma túy. Khi T đến nơi, đang đứng chờ Q thì bị lực lượng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang; thu giữ và niêm phong 02 gói nilon, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Ngoài ra, còn thu giữ của T: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ-đen kèm sim số (mặt sau sim có dãy số 8984048000060834512) và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius biển số 81B2-618.36 (BL số: 20-21; 29-42; 43-44).

Qua giám định, tại bản Kết luận giám định số 85/KLGĐ ngày 30/12/2019, của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 gói nilon, trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,6902 gam(BL số 23, 26).

Tại Bản cáo trạng số: 74/CT-VKS ngày 17/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo Trần Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa đúng như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố và các T liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và không có ý kiến hay khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Đối với chiếc xe biển số 81B2-618.36 là của chị Đặng Thị Mỹ L (sinh năm 1986, trú tại Tổ 3, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai). Chị L cho Lê Gia C (là con trai của chị Lan) mượn để làm phương tiện đi lại. Ngày 23/12/2019, Cường cho T mượn sử dụng. Việc T sử dụng xe đi gặp Quý để lấy ma túy thì C và chị L không biết. Do đó, Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã trả chiếc xe mô tô biển số 81B2- 618.36 cho chị L (BL số: 46-47, 48-49).

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ-đen kèm sim số là của bị cáo T và bị cáo đã dùng vào việc liên lạc với Q để lấy ma túy. Số ma túy còn lại sau giám định trong bao gói ghi số 85/PC09 ngày 30/12/2019, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai. Cơ quan điều tra chuyển toàn bộ vật chứng nêu trên theo hồ sơ vụ án để xử lý (BL số: 26, 41-42; 55-56).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Đức T và đề nghị Hội đồng xét xử: Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Căn cứ khoản 1, Điều 47 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đức T mức án từ 1 năm 9 tháng đến 02 năm tù, tính từ ngày bị tạm giữ 24/12/2019.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy số ma túy còn sau giám định trong bì công văn ghi số 85/CP09 ngày 30/12/2019 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

Đối với chiếc điện thoại: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Bị cáo thừa nhận mức hình phạt mà Kiểm sát viên công bố và việc xử lý vật chứng cũng như các nội dung khác mà Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là phù hợp nên không có ý kiến tranh luận gì Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm bị cáo:

Sau khi nhận được 02 gói ma túy do đối tượng tên Q đưa, Trần Đức T đi chơi cùng bạn bè một lúc thì tìm địa điểm để sử dụng. Khoảng 22 giờ 30 phút tối ngày 23/12/2019, T đến Hẻm số 221 đường Hai Bà Trưng, Phường D, thành phố P, tỉnh Gia lai để chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng cảnh sát Công an thành phố P bắt quả tang và thu giữ trong người Trần Đức T 02( hai) gói nilon có chứa chất bột màu trắng. Tại bản Kết luận giám định số 85/KLGĐ ngày 30/12/2019 của Phòng Khoa học hình sự Công an tỉnh Gia Lai xác định: “ Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,6902 gam”. Hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để sử dụng của T đã phạm tộị: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo T ra trước Tòa để xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.

Ma tuý là chất hướng thần, gây nghiện; để đáp ứng nhu cầu của cơ thể, người nghiện ma túy bất chấp các giá trị đạo đức, sẳn sàng phạm tội để có tiền mua ma túy sử dụng. Hiện nay tình trạng người nghiện ma túy thực hiện tội phạm ngày càng gia tăng, gây hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và xã hội. Đây là loại tội phạm nguy hiểm nhất trong cộng đồng xã hội. Do đó Nhà nước nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ, sản xuất cũng như các hành vi khác liên quan đến chất ma túy. Trần Đức T nhận thức được điều đó, nhưng vì để đáp ứng cho nhu cầu bản thân mà cố tình phạm tội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý chất ma túy của Nhà nước, nên cần xử phạt bị cáo mức án tù nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà bị cáo gây ra nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, răn đe, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để cân nhắc khi quyết định hình phạt [4] Về vật chứng vụ án:

Cơ quan điều tra Công an thảnh phố P đã trả lại xe mô tô tô biển số 81B2-618.36 cho chị chủ sở hữu là đúng pháp luật, vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ-đen kèm sim số là của bị cáo T đã dùng vào việc liên lạc với Q để lấy ma túy. Cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Số ma túy còn lại sau giám định trong bao gói ghi số 85/PC09 ngày 30/12/2019, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, là vật chứng cấm lưu hành, cần áp dụng khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tich thu tiêu hủy.

Đối với đối tượng tên Q mà T khai đã cung cấp ma túy hiện nay không xác định nhân thân. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành mở danh bạ và nhật ký điện thoại đã thu giữ của T nhưng không xác định được số điện thoại của Q nên chưa có căn cứ để điều tra. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét và xử lý sau.

Đối với đề nghị của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa về mức án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc xử lý vật chứng là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Đức T 02 ( Hai ) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 24/12/2019.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ-đen kèm sim số.

- Tich thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định trong bao gói ghi số 85/PC09 ngày 30/12/2019, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

( Số lượng, chủng loại, tình trạng vật chứng như trong Biên bản bàn giao vật chứng ngày 17/4/2020 giữa Công an thành phố P và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P,tỉnh Gia Lai).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Đức T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Những đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:84/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về