TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 84/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Trong ngày 27/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 344/2019/TLST-HNGĐ ngày 05/9/2019 về việc tranh chấp Hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 184/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23/10/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 160/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/11/2019 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Tạ Thanh T, sinh năm 1992 (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
Nơi ĐKHKTT: thôn Đ, xã N, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
Chỗ ở: thôn 7, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1991 (vắng mặt)
Nơi cư trú: thôn Đ, xã N, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Tạ Thanh T trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Hoàng Văn D vào ngày 21/3/2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N. Sau khi kết hôn chị về làm dâu và chung sống cùng bố mẹ đẻ anh D ngay. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận. Đến đầu năm 2018, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn to tiếng, đánh chửi nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh D nghiện ma túy đá, không chịu làm ăn, nhiều lần cắm xe, tài sản của vợ chồng. Khi không có tiền sử dụng ma túy thì đánh đập, chửi bới chị nhiều lần. Chị và gia đình đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh D không nghe. Đến đầu tháng 8/2019 do anh D đánh đập chị nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 7, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang để sinh sống cho đến nay, không quay về chung sống cùng anh D nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chị xin được ly hôn với anh D.
Về con chung: vợ chồng chị có 01 con chung là Hoàng Khánh Duy, sinh ngày 01/3/2018. Hiện nay cháu Duy đang ở cùng với với chị, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường. Ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Duy.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng chị không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Hoàng Văn D đã được Tòa án giao thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ. Nhưng anh D không có văn bản trình bày ý kiến đối với các yêu cầu của nguyên đơn và vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
Tòa án đã tiến hành thủ tục hòa giải nhưng anh D đều vắng mặt mà không có lý do nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa: Nguyên đơn là chị Tạ Thanh T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn là anh Hoàng Văn D vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật.
- Nội dung giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thanh T được ly hôn anh Hoàng Văn D.
Về con chung: Giao cho chị Tạ Thanh T nuôi dưỡng con chung là Hoàng Khánh Duy, sinh ngày 01/3/2018.
Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn khởi kiện của chị Tạ Thanh T cùng các tài liệu nộp kèm theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện Lạng Giang. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Tại phiên tòa nguyên đơn là chị T vắng mặt và đã có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh D vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị T, anh D theo quy định tại khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thanh T và anh Hoàng Văn D có đăng ký kết hôn vào ngày 21/3/2016 tại UBND xã N, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị T, anh D là hợp pháp.
Về tình trạng hôn nhân, Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Lời khai của chị T phù hợp với biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương xác định vợ chồng chị T, anh D có sảy ra nhiều mâu thuẫn to tiếng, cãi nhau, đánh nhau và đã có khoảng thời gian sống ly thân từ tháng 8/2019 cho đến nay không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Nay chị T xin ly hôn, tuy anh D không có ý kiến đối với yêu cầu của chị T. Nhưng Hội đồng xét xử xét thấy rằng, trong thời gian sống chung vợ chồng không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ về nhân thân, không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ mọi việc, không giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2019 cho đến nay. Việc này trái với các quy định tại các điều 19, 21 luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về căn cứ cho ly hôn thì thấy rằng: Tình trạng của vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh D.
[4] Về con chung: Vợ chồng chị T, anh D có một con chung là Hoàng Khánh Duy, sinh ngày 01/3/2018. Ly hôn, chị T xin được nuôi dưỡng con chung. Anh D không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị T. Nhưng thấy rằng: cháu Duy hiện nay còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cháu Duy cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc để đảm bảo cho cháu Duy phát triển tốt về mọi mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
Anh D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở anh D thực hiện quyền này.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Anh D có quyền làm đơn đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5] Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thanh T được ly hôn anh Hoàng Văn D.
2. Về con chung: Giao cho chị Tạ Thanh T nuôi dưỡng con chung là Hoàng Khánh Duy, sinh ngày 01/3/2018.
Sau khi ly hôn anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở anh D thực hiện quyền này.
Anh D có quyền làm đơn đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Chị Tạ Thanh T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0007377 ngày 05/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Án xử công khai sơ thẩm./.
Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 84/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về