Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 84/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 263/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 251/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tạ Thị Cẩm L, sinh năm 1977; (có mặt)

Địa chỉ: ấp B, xã H, huyện M, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Ông Phạm Văn H, sinh 1977; (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/6/2019, bản tự khai, cùng các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án và tại phiên toà nguyên đơn Tạ Thị Cẩm L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Phạm Văn H cưới nhau vào năm 2003, đến năm 2007 vợ chồng mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng cùng nhau sinh sống làm việc tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre, vợ chồng cùng nhau làm ăn chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Đến năm 2015, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chồng bà ngoại tình, đánh đập bà. Do đó, bà đã về nhà cha mẹ ruột tại ấp B, xã H, huyện M sinh sống từ năm 2015 cho đến nay. Nay, bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu ly hôn với ông H.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Thị D, sinh ngày XYZ và Phạm Văn H, sinh ngày ABC. Hiện nay 02 con chung đang sống chung với ông H. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu để 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, bà tự nguyện cấp dưỡng mỗi con chung 800.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án ông Phạm Văn H được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ nhiều lần nhưng ông H vắng mặt không lý do.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng pháp luật tố tụng xem như đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; Về con chung: hiện nay 02 con chung đang sống chung với ông H, đồng thời 02 con chung đều có nguyện vọng sống với ông H, do đó để 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, ghi nhận bà L tự nguyện cấp dưỡng mỗi con chung 800.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Về tài sản chung: bà L trình bày không có nên không xem xét; Về nợ chung: bà L trình bày không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ trích lục kết hôn ngày 25/6/2019 (BL10) thể hiện nội dung vào năm 2007, bà Tạ Thị Cẩm L và ông Phạm Văn H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre, đồng thời quá trình chung sống vợ chồng có con chung. Nay, bà L nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông H, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Phạm Văn H có nơi cư trú tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre. Đối chiếu quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam.

[3] Về sự vắng mặt của đương sự: Toà án đã tiến hành thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng cho ông H theo đúng quy định tại các Điều 175, 177, 196, 208 và Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng ông H vẫn cố tình vắng mặt. Như vậy, việc ông H vắng mặt được xem là từ bỏ quyền trình bày, đưa ra chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về nội dung tranh chấp:

4.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông H sống chung với nhau từ năm 2003 nhưng chưa đăng ký kết hôn. Đến ngày 13/4/2007, cả hai mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo bà L trình bày vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015 do bất đồng quan điểm, chồng bà ngoại tình, khi về nhà ông H còn đánh đập bà. Mặc dù gia đình đã hòa giải nhưng cả hai đều không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ. Đến năm 2015, bà đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống tại ấp B, xã H, huyện M, tỉnh Bến Tre sinh sống cho đến nay. Tại phiên tòa, bà L xác định không còn tình cảm với ông H và đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông H đến để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng của ông và bà L nhưng ông H không có mặt. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và các tài liệu chứng cứ của bà L cho ông H nhưng ông H không có mặt cũng như không có ý kiến phản đối với yêu cầu của bà L. Ngoài ra, tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 06/8/2019 có nội dung: “… theo địa phương được biết, ông H và bà L thường xuyên xảy ra cự cãi, cả hai cũng có xảy ra sự việc đánh nhau…” Từ các căn cứ trên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L là phù hợp.

4.2. Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng bà L và ông H có với nhau hai con chung tên Phạm Thị D, sinh ngày XYZ và Phạm Văn H, sinh ngày ABC. Tại phiên tòa, bà L yêu cầu để 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng và bà tự nguyện cấp dưỡng mỗi con chung 800.000 đồng/tháng đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 06/8/2019 thể hiện nội dung hai con chung đang sống chung với ông H. Bên cạnh đó, tại Biên bản ghi nguyện vọng con chung, cháu D và cháu H đều có nguyện vọng sống chung với ông H (BL 28, 29). Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử xét thấy để 02 con chung cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận bà L tự nguyện cấp dưỡng mỗi con chung 800.000 đồng/tháng đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi.

4.3. Về tài sản chung: Bà L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4.4. Về nợ chung: Bà L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà L có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Các điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

- Các điều 28, 35, 39, 147 và khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tạ Thị Cẩm L.

Cụ thể tuyên:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Tạ Thị Cẩm L được ly hôn với ông Phạm Văn H.

- Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Phạm Thị D, sinh ngày XYZ và Phạm Văn H, sinh ngày ABC. Sau khi ly hôn, ông Phạm Văn H là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung (phù hợp với nguyện vọng của con). Ghi nhận bà Tạ Thị Cẩm L tự nguyện cấp dưỡng mỗi con chung mỗi tháng 800.000 (tám trăm nghìn) đồng cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, bà Tạ Thị Cẩm L có quyền thăm, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà Tạ Thị Cẩm L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Bà Tạ Thị Cẩm L trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Án phí:

Bà Tạ Thị Cẩm L có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003691 ngày 26/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre (đã nộp xong).

Bà Tạ Thị Cẩm L có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng.

3. Bà Tạ Thị Cẩm L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông Phạm Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:84/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về