Bản án 84/2018/HNGĐ-ST ngày 05/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI,TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 84/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 05 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 711/2017/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2017 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thu C, sinh năm 1997; (có mặt). Cư trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Hồ Thành L, sinh năm 1997; (vắng mặt). Cư trú: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trương Thị Thu C trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông L quen nhau và sống chung với nhau vào cuối năm 2016 nhưng không tổ chức lễ cưới. Vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian sống chung, vợ chồng thường hay cãi nhau, nguyên nhân do chồng đi nhậu rồi về kiếm chuyện với bà, ông không quan tâm đến vợ con. Vợ chồng không còn sống chung khoảng 03 tháng nay. Từ ngày bà mang thai đến nay, chồng không quan tâm, hỏi thăm hay động viên, an ủi bà. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Vì vậy, bà yêu cầu được ly hôn với chồng là ông Hồ Thành L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Hồ Ngọc Khả H, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2017. Hiện nay, cháu H đang do bà chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Từ khi bà sinh con đến nay, ông L không phụ tiếp chi phí sinh con cũng như chi phí nuôi dưỡng con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Hồ Thành L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và cũng không gửi ý kiến cho Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa: Bà C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Chị C và anh L sống chung và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Thời gian chung sống, anh L không quan tâm, chăm sóc đến chị C nên vợ chồng thường hay cãi nhau. Chị C yêu cầu ly hôn, anh L không có ý kiến phản đối và cũng không tạo điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng nên việc chị C yêu cầu xin ly hôn là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hân, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, cháu H dưới 36 tháng tuổi, đang sống với chị C và phát triển bình thường nghĩ nên để chị C tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hân, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không đề cập đến.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Bà C khởi kiện ông L, ông L có nơi cư trú ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1]. Về hôn nhân: Bà C và ông L tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 79 ngày 24 tháng 7 năm 2017 nên quan hệ hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Bà C xác định thời gian vợ chồng sống chung thường hay xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do ông L thường xuyên đi nhậu rồi về kiếm chuyện đến bà, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Xét thấy, bà C và ông L chung sống với nhau nhưng vợ chồng không yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không quan tâm lẫn nhau. Bên cạnh đó, ông L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo triệu tập ông để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn không có mặt và cũng không gửi ý kiến cho Tòa án. Từ đó, thấy rằng ông không quan tâm đến mối quan hệ vợ chồng, bỏ mặc bà C muốn làm gì thì làm đủ để thấy giữa hai người không còn tình nghĩa vợ chồng làm cho hôn nhân L vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa, bà C xác định tình cảm vợ chồng không còn, vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà C là phù hợp.

[2]. Về con chung: Bà C xác định vợ chồng có 01 (một) con chung tên Hồ Ngọc Khả H, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2017. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu H. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện nay, cháu H đang được bà C chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển tốt. Bên cạnh đó, hiện tại cháu H chưa đủ 36 tháng tuổi và ông L cũng không có ý kiến phản đối nên có căn cứ để chấp nhận nguyện vọng của bà C là được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà C không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Bà C xác định không có, nên không đề cập đến.

[5]. Về nợ chung: Bà C xác định không có, nên không đề cập đến. Ghi nhận bà C xác định vợ chồng không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà C và ông L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[6]. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Các Điều 28, 35, 39, 228, 144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; 

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Thu C đối với ông Hồ Thành L.

Về hôn nhân: Bà Trương Thị Thu C được ly hôn với ông Hồ Thành L.

Về con chung: Bà Trương Thị Thu C được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hồ Ngọc Khả H, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2017. Hiện nay, cháu H đang được bà C chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà C không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

Bà C cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đề cập giải quyết.

Về án phí: Bà Trương Thị Thu C phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai số 0019041 ngày 28/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Về quyền kháng cáo: Bà C có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông L có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2018/HNGĐ-ST ngày 05/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:84/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về