Bản án 84/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 84/2018/DS-ST NGÀY 13/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 197/2013/TLST-DS ngày 01/4/2013 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2018/QĐXX-ST ngày 26/9/2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Hồ Thị Thanh S, sinh năm 1964; Địa chỉ: đường M, phường M, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Bị đơn: Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm 1978; Địa chỉ: đường N, phường B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nguyên đơn Hồ Thị Thanh S trình bày: Ngày 02/01/2012, nguyên đơn Hồ Thị Thanh S cho bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H vay số tiền 10.000.000 đồng, góp 30 ngày, mỗi ngày góp 350.000 đồng, lãi suất 7%/ngày. Ngày 19/01/2012, nguyên đơn Hồ Thị Thanh S cho bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H vay số tiền 10.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi, không hẹn thời gian trả nợ. Từ ngày vay cho đến nay, bị đơn chưa trả cho nguyên đơn khoản tiền gốc và lãi nào nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh toán số tiền gốc 20.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật.

Bị đơn vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tiến hành hòa giải và kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng do bị đơn vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 471; Điều 474; Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S; Buộc bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S 10.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi theo mức lãi suất 1,125%/tháng tính từ (ngày 03/02/2012) đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 13/11/2018) đối với giấy nhận nợ vay tiền ngày 02/01/2012 và buộc bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S 10.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi theo mức lãi suất 9%/năm (0,75%/tháng) tính từ ngày vay 19/01/2012 cho đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 13/11/2018) đối với giấy nhận nợ vay tiền ngày 19/01/2012. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật, hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Nguyên đơn Hồ Thị Thanh S có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H được triệu tập hợp lệ để xét xử nhưng vắng mặt nên căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn Hồ Thị Thanh S khởi kiện yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H phải trả khoản nợ vay là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điều 35 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[1.2] Ngày 05/7/2013, Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa nhập vụ án dân sự thụ lý số 173/2013/DSST ngày 28/3/2013 “V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” vào vụ án dân sự thụ lý số 197/2013/DSST ngày 01/4/2013 “V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” để giải quyết trong cùng một vụ án do cùng nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật tranh chấp theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Xét yêu cầu đòi nợ gốc của nguyên đơn: Vào các ngày 02/01/2012 và ngày 19/01/2012, bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H vay của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S với tổng số tiền 20.000.000 đồng. Từ ngày vay cho đến nay, bị đơn chưa trả khoản tiền gốc và lãi nào cho nguyên đơn. Vì vậy, xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc là 20.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 20.000.000 đồng.

[3] Đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Tại giấy nhận nợ vay tiền ngày 02/01/2012 với số tiền vay 10.000.000 đồng, các đương sự thỏa thuận về việc trả lãi nhưng mức lãi suất 7%/ngày là vượt quá quy định tại khoản 1 Điều 476 của Bộ luật Dân sự 2005; nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lãi suất theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận mức lãi suất bằng 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm x 150% = 13,5%/năm = 1,125%/tháng (Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010); thời gian tính lãi được tính từ ngày bị đơn vi phạm thời hạn trả nợ (ngày 03/02/2012) đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 13/11/2018) là 81 tháng 10 ngày x 10.000.000 đồng x 1,125%/tháng = 9.150.000 đồng.

[3.2] Tại giấy nhận nợ vay tiền ngày 19/01/2012 với số tiền vay 10.000.000 đồng, các đương sự không thỏa thuận về việc trả lãi. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị đơn phải trả lãi suất theo quy định của pháp luật là có cơ sở theo quy định tại khoản 4 Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay “Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ” và quy định tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005 “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Vì vậy, Hội đồng xét xử buộc bị đơn phải trả lãi cho nguyên đơn theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm (Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010), thời gian kể từ ngày 19/01/2012 cho đến ngày Tòa xét xử vụ án (ngày 13/11/2018) là 81 tháng 24 ngày x 9%/năm (0,75%/tháng) x 10.000.000 đồng = 6.135.000 đồng.

[4] Vì vậy, bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S số tiền 35.285.000 đồng; Trong đó tiền gốc 20.000.000 đồng, tiền lãi 15.285.000 đồng.

[5] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Hoàn lại cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 305; Điều 471; Điều 474; Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S; Buộc bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S tổng số tiền 35.285.000 đồng (Ba mươi lăm triệu hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng); Trong đó tiền gốc 20.000.000 đồng, tiền lãi 15.285.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 14/11/2018), bị đơn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành xong.

Về án phí: Áp dụng vào Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị đơn Nguyễn Thị Cẩm H phải chịu 1.764.250 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S số tiền 250.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai thu tiền số AA/2010/10522 ngày 26/3/2013 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên và số tiền 289.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai thu tiền số AA/2010/10494 ngày 22/3/2013 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:84/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về