Bản án 835/2017/HNGĐ-PT ngày 13/09/2017 về tranh chấp ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 835/2017/HNGĐ-PT NGÀY 13/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 67/2017/TLPT-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2017 về ly hôn.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 484/2017/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 725/2017/QĐ-PT ngày 25 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Đức T; cư trú tại: đường A, phường E, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị T; cư trú tại: đường B, khu phố C, phường G, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bị đơn – bà Phạm Thị T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 14/02/2017 và lời khai của nguyên đơn – ôngTrần Đức T thì:

Về hôn nhân: Ông và bà Phạm Thị T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Nam Định theo Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số02/2008 ngày 12/12/2008. Sau khi kết hôn, Ông và bà T sống chung với cha mẹ của Ông tại Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2013, chuyển về sống tạiphường E, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay. Thời gian đầu, Ông và bà T chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về cách sống, kinh tế gia đình và cách giáo dục con. Ông là người lao động tạo thu nhập để lo cho gia đình, bà T chỉ ở nhà chăm sóc con. Ông và bà T không có tiếng nói chung, không có sự chia sẽ khó khăn trong công việc, khi đau ốm, bà T không tôn trọng cha mẹ của Ông. Giữa Ông và bà T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi, bà T đã nhiều lần bỏ nhà đi. Năm 2015, Ông nộp đơn khởi kiện Tại Tòa án nhân dân quận Tân Phú yêu cầu ly hôn bà T, sau đó Ông rút đơn để vợ chồng đoàn tụ (theo Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình số 1002/2015/QĐST-HNGĐ ngày 27/11/2015 của Tòa án nhân dân quận H) nhưng không có kết quả, bà T không thay đổi. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông khởi kiện yêu cầu ly hôn bà T.

Về con chung: Ông và bà T có 03 con chung là: Cháu U, sinh ngày07/12/2008, giới tính: Nữ; cháu C, sinh ngày 30/9/2011, giới tính: Nữ và cháu B, sinh ngày 01/4/2013, giới tính: Nam. Hiện nay, các con chung đang do Ông trực tiếp nuôi dưỡng. Ông có điều kiện thuận lợi hơn bà T trong việc nuôi, chăm sóc và giáo dục con: Đang sinh sống và kinh doanh ổn định tại nhà ở phường E, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh gần trường học, có nhiều thời gian chăm sóc con và có thu nhập từ 15.000.000 đ đến 18.000.000 đ mỗi tháng nên Ông yêu cầu được trực tiếp nuôi ba con chung, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông và bà T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông và bà T không có nợ chung.

Theo lời khai của bị đơn – bà Phạm Thị T thì: Bà thống nhất với trình bày của ông T về việc kết hôn; thời gian, địa điểm chung sống; con chung và nợ chung. Bà xác nhận trong quá trình chung sống, giữa Bà và ông T có mâu thuẫn, chủ yếu do mâu thuẫn giữa bà và mẹ của ông T. Do có 03 con nhỏ nên Bà không thể đi làm mà chỉ ở nhà chăm sóc các con, ông T là người lao động tạo thu nhập trong gia đình. Ông T rất có hiếu với mẹ, thu nhập làm ra ông T giao cho mẹ của Ông giữ và không bao giờ chia sẽ với Bà nên vợ chồng không hiểu nhau. Bà xác nhận Bà có bỏ nhà đi nhiều lần nhưng không phải Bà tự ý đi mà do mẹ của ông T đuổi Bà đi. Bà đã nhiều lần yêu cầu ông T thuê nhà ở riêng nhưng ông T không đồng ý. Hiện nay, Bà đang thuê nhà ở riêng nhưng Bà vẫn thường xuyên về thăm các con. Bà đã có việc làm nhưng chưa được ký hợp đồng, thu nhập khoảng 6.000.000 đ đến 7.000.000 đ. Bà nhận thấy mâu thuẫn giữa Bà và ông T không đến mức nghiêm trọng nên Bà không đồng ý ly hôn ông T. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T, Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con: Mỗi con 2.000.000 đ mỗi tháng. Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.

Theo lời khai của cháu U, sinh ngày 07/12/2008 thì: Hiện Cháu đang ở vớiBa. Nếu ba mẹ không ở chung thì Cháu muốn ở với mẹ.

Theo Biên bản xác minh mâu thuẫn ngày 16/5/2017, ông Đ – Tổ trưởng tổ dân phố D, khu phố C, phường E, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (nơi ông T và bà T chung sống trước khi ông T nộp đơn khởi kiện) cho biết: Ông T và bà T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Khoảng tháng 10- 11/2016, ông T và bà T cãi nhau có sự can thiệp của tổ dân phố và Hội phụ nữ. Từ tháng 10-11/2016, bà T không chung sống với ông T, chuyển đi đâu không rõ. Ông T và các con vẫn sống tại địa phương.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 484/2017/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 6 năm 2017, Tòa án nhân dân quận Tân Phú quyết định:

 “1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đức T:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Đức T được ly hôn bà Phạm Thị T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 02/2008 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Nam Định cấp ngày 12/12/2008 cho ông Trần Đức T và bà Phạm Thị T hết hiệu lực kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực.

- Về quan hệ con chung: Giao hai con chung U, sinh ngày 07/12/2008 và C, sinh ngày 30/9/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung B, sinh ngày01/4/2013 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Gia Bảo cho bà T do ông T không yêu cầu.

Ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung Tú Uyên và Minh Châu mỗi con 2.000.000 đồng/ tháng. Bắt đầu thực hiện kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, thực hiện vào ngày đầu mỗi tháng. Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt theo Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành chưa thi hành án thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm thi hành theo quy định tại Khoản 2, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

+ Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì được yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Bà T, ông T được quyền thăm nom con, không ai được cản trở.

+ Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (người thân thích, cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầuTòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Hai bên xác nhận không có.

2. Về án phí:

Ông Trần Đức T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng. Ngoài ra, ông T còn phải chịu án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng. Số tiền án phí trên được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồngông T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0026193 ngày 28/02/2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T phải nộp thêm tiền án phí là 300.000 đồng.Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền”.

Ngoài ra, Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm còn quyết định quyền yêu cầu thi hành án và kháng cáo của các đương sự.

Ngày 16/6/2017, bị đơn – bà Phạm Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét hết các tình tiết khách quan của vụ án; mâu thuẫn giữa Bà và ông T không nghiêm trọng, chỉ là bất hòa trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu; Bà và ông T đã chung sống hạnh phúc từ năm 2008, đến nay vẫn còn tình cảm, vẫn quan tâm, chăm sóc và cùng xây dựng gia đình, nuôi dạy con nên Bà không đồng ý ly hôn ông T.

Tại Bản tự khai ngày 10/8/2017, bị đơn – bà Phạm Thị T trình bày: Bà không đồng ý ly hôn ông T. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T thì Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 3.000.000 đ mỗi tháng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn – bà Phạm Thị T trình bày: Bà nhận thấy mâu thuẫn giữa Bà và ông T không nghiêm trọng, chỉ xuất phát bất hòa trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Ông T không thể tự chăm sóc các con, hiện nay ông T đang gửi cháu B cho họ hàng của Ông chăm sóc nên Bà không đồng ý ly hôn ông T. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T thì Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 3.000.000 đ mỗi tháng.

Nguyên đơn – ông Trần Đức T trình bày: Đề nghị Tòa án giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Kiểm sát viên phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thời hạn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Phạm Thị T trong thời hạn luật định.

Về nội dung: Mâu thuẫn giữa ông T và bà T chưa đến mức trầm trọng. Những bất hòa trong cuộc sống chủ yếu là giữa mẹ chồng và nàng dâu. Bà T cũng đã nhận ra lỗi của mình và hứa sẽ khắc phục để mong hàn gắn gia đình, vợ chồng cùng chăm lo, nuôi dưỡng các con. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà T, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 89, quyển số 02/2008 ngày 12/12/2008 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Nam Định cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông Trần Đức T và bà Phạm Thị T là hợp pháp. Trong thời kỳ hôn nhân, giữa ông T và bà T có phát sinh mâu thuẫn, nhưng chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu. Tính chất mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, nên cần tạo điều kiện cho hai bên có thời gian giải quyết mâu thuẫn, khắc phục tình trạng hôn nhân, cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con phát triển lành mạnh, xây dựng gia đình hạnh phúc như đề nghị của Kiểm sát viên.

 [2] Do đó, chấp nhận kháng cáo của bà T, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.

 [7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Khoản 1, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 1, Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo – bà Nguyễn Thị Vân không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1, Điều 148 và Khoản 2 , Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 19; Khoản 1, Điều 56; của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Khoản 2, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Sửa Bản án sơ thẩm:

1.1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Trần Đức T, yêu cầu ly hôn bà Phạm Thị T.

1.2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trần Đức T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0026193 ngày 28/02/2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận H là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng). Ông T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho bà Phạm Thị T số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0009371 ngày 16 tháng 6 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận H.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại của Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 835/2017/HNGĐ-PT ngày 13/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:835/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về