TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 834/2019/HSPT NGÀY 25/12/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 803/2019/HSPT ngày 09/10/2019 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2019/HS-ST ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bi V; tên gọi khác: Không; sinh ngày 19/10/1992, tại tỉnh Bô Ly Khăm Xay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Nơi cư trú: Bản Ph M N, cụm bản thị trấn L X, huyện Kh C, tỉnh Bô Ly Khăm Xay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; dân tộc: Mông; quốc tịch: Lào; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Dông Nạ V, sinh năm 1960 và bà May X, sinh năm 1962; có vợ Chia Nênh X1, sinh năm 1993 và 04 con, con đầu sinh năm 2011, con út sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Lê Thị Hải Th, Văn phòng luật sư H Th, Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.
- Người phiên dịch: Ông Vừ Bá X; đơn vị công tác: Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 18/3/2019, có một người đàn ông ở Lào (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) mang theo 01 túi nilon màu đen đến nhà Bi V ở bản Ph M N, cụm bản thị trấn L X, huyện Kh C, tỉnh Bô Li Khăm Xay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và nói đó là ma túy rồi thuê Bi V vận chuyển qua Cửa khẩu Thanh Th, huyện Th Ch để giao cho một người đàn ông Việt Nam, người đàn ông này sẽ trả cho Bi V 3.500.000 Kíp Lào (tương đương 10.000.000 đồng tiền Việt Nam). Bi V đồng ý. Người đàn ông giao gói ma túy rồi lấy số điện thoại của Bi V và nói: Khoảng 11 giờ ngày 22/3/2019, đưa số ma túy này đến khu vực đường nhựa gần Cửa khẩu Thanh Th thì người Việt Nam sẽ liên lạc để nhận. Bi V cầm gói ma túy, đi nhờ xe máy của một người đàn ông quốc tịch Lào (không rõ lai lịch) đến khu vực rừng thuộc bản N O, huyện X Ch Ph, tỉnh Bô Ly Khăm Xay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và nghỉ tại đây. Đến khoảng 06 giờ ngày 22/3/2019, Bi V đi tắt theo đường tiểu ngạch sang Cửa khẩu Thanh Th. Khoảng 11 giờ cùng ngày thì có một người gọi điện cho Bi V nói: Sẽ có xe đến đón để đi giao ma túy. Một lúc sau, có một xe ô tô màu đỏ không có biển kiểm soát đi đến nơi Bi V đứng đợi. Trong xe có 03 người đàn ông Việt Nam, một người mở cửa cho Bi V lên xe để đi xuống xã Thanh Th giao ma túy và nhận tiền công. Khi xe đi đến km 63 + 00, Quốc lộ 46 thuộc địa phận thôn 3, xã Thanh Th, huyện Th Ch, tỉnh Nghệ An thì dừng lại bên đường. Bi V đang đưa gói ma túy cho người đàn ông và chuẩn bị nhận tiền công thì thấy bộ đội Biên phòng đi đến, Bi V ôm túi ma túy nhảy xuống xe định chạy trốn thì bị bắt giữ vào hồi 12 giờ 5 phút ngày 22/3/2019, những người trên xe ô tô chạy thoát.
Tại Bản Kết luận giám định số 518/KL-PC09(MT) ngày 28/3/2019 của phòng Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: 100 mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1 đến M100) thu giữ của Bi V gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén màu hồng (100 gói) thu giữ của Bi V có tổng khối lượng là 1.942,29 gam.
Vật chứng thu giữ: 100 gói Methamphetamine có tổng khối lượng 1.942,29 gam, đã lấy 186,695 gam đi giám định và sử dụng hết trong quá trình giám định, còn lại 1.755,595 gam và 01 điện thoại di động hiệu Telecom màu đen (đã cũ) hiện đang bảo quản tại kho tang vật Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2019/HS-ST ngày 29/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tuyên bố bị cáo Bi V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Bi V tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 22/3/2019. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Bi V.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 11/9/2019, bị cáo Bi V có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được giảm hình phạt.
Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu quan điểm cho rằng: Ngày 22-3-2019, bị cáo Bi V vận chuyển 1.942,29 gam Methamphetamine từ Lào vào Việt Nam thì bị bắt quả tang. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Bi V tù chung thân là không oan và không nặng, tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo.
Vị luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo cho rằng: Bị cáo là người nước ngoài nhận thức về pháp luật Việt Nam còn hạn chế, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa phúc thẩm đã tố giác những người giao, nhận ma túy cho bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức án có thời hạn để bị cáo sớm được trở về.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22-3-2019, bị cáo Bi V đã vận chuyển thuê 1.942,29 gam Methamphetamine từ Lào vào Việt Nam thì bị bắt quả tang.
Do đó Tòa án cấp sơ thẩm kết án Bi V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.
Xét đơn kháng cáo của bị cáo Bi V thì thấy: Mặc dù bị cáo chưa có tiền án tiền sự, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhưng bị cáo đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy với khối lượng rất lớn(1.942,29 gam Methamphetamine) từ Lào vào Việt Nam nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Bi V tù chung thân là không nặng. Tại phiên tòa hôm nay, mặc dù bị cáo khai và cung cấp ảnh người đưa người nhận ma túy cho bị cáo, nhưng chưa có cơ sở xác minh là có đúng hay không. Việc này nếu có căn cứ sẽ được xem xét ở giai đoạn thi hành án, chứ không cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung như vị luật sư đề nghị. Vì vậy, không thể giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như yêu cầu kháng cáo của bị cáo mà giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356; Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bi Vàng, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2019/HSST ngày 29-8-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
1. Tuyên bố bị cáo Bi V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Bi V tù chung thân, tính từ ngày 23-3-2019.
2. Bị cáo Bi V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án này có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 834/2019/HSPT ngày 25/12/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 834/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về