TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 675/2019/HSPT NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 659/2019/TLPT-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 224/2019/HSST ngày 23/07/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn B, sinh năm 1981 tại H; đăng ký nhân khẩu thường trú: số 15, ngách 182/86 phố B, phường Ch, quận H1, thành phố Hà Nội; Nơi từng cư trú: số nhà 38 ngõ 371 đường Đ, phường Ô, quận Đ, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 04/12; con ông Nguyễn Đức Th và bà Phan Thị L; có vợ là Tưởng Thị Th và 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2007; tiền án: Bản án số 111/2017/HS-ST ngày 28/4/2017 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phổ Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2018; tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/12/2018; Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Thanh B - Công ty luật TNHH MTV B - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 30 phút ngày 04/12/2018 tại ngã ba phố H - Võ Văn D thuộc phường Ô, quận Đ, thành phố Hà Nội, Tổ công tác Y19-141 của Công an thành phố Hà Nội kiểm tra, phát hiện Nguyễn Văn B điều khiển xe môtô Piaggio Liberty biển kiểm soát 29-G1-761.04 bên trong cốp xe có 33 túi nilon chứa các viên nén hình tròn màu đỏ nghi là ma túy; thu giữ 03 điện thoại di động, 01 xe môtô và 60.000.000 đồng.
Tại Bản kết luận giám định số 9245/KLGĐ-PC09 ngày 13/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Các viên nén màu đỏ bên trong 33 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 662,41 gam” Quá hình điều tra Nguyễn Văn B khai: Ngày 25/11/2018, B đang ngồi uống nước tại phố H, phường Ô, quận Đ thì gặp một người đàn ông giới thiệu tên T (Khoảng 45 tuổi, không rõ nhân thân) thuê B vận chuyển ma túy cho T, tiền công vận chuyển là 3.000.000 đồng. Đến 21 giờ 30 ngày 04/12/2018, T dùng điện thoại có 03 số cuối là 247 gọi cho B bảo đến chỗ cột điện gần số nhà 05 ngõ 68 phố Đoàn Thị Đ, phường Qu, quận Đ lấy ma túy giấu ở đó, sẽ có người liên lạc với B để nhận ma túy và trả tiền. Theo chỉ dẫn của T, B điều khiển xe môtô Piaggio Liberty biển kiểm soát 29-G1-761.04 đến điểm hẹn lấy ma túy, Sau khi kiểm tra, B giấu ma túy vào trong cốp xe rồi đi lòng vòng đợi người liên lạc để giao ma túy; khi đi đến khu vực ngã ba H - Võ Văn D thì bị kiểm tra bắt giữ. Kết quả thu giữ bản kê chi tiết các cuộc gọi và tin nhắn thu được trong điện thoại của Nguyễn Văn B xác định không có số điện thoại nào có 3 số cuối là 247 gọi cho B.
Đối với chiếc xe môtô Piaggio Liberty biển kiểm soát 29-G1-761.04: Nguyễn Văn B khai mượn chiếc xe của anh Nguyễn Trung D (Sinh năm 1992; trú tại: Thôn L, xã H, huyện M, tỉnh Hưng Yên) từ ngày 02/12/2018. Qua xác minh, chiếc xe trên đăng ký chủ sở hữu là Nguyễn Thị Mỹ Ng (Sinh năm 1997; ĐKNKTT: số 44 ngõ 250 phố Kh, phường Kh, quận Th, thành phổ Hà Nội). Chị Ng mua chiếc xe trên vào tháng 06/2018; ngày 25/11/2018 chị cho anh trai là Nguyễn Quý D mượn để về quê. Anh Nguyễn Quý D (Sinh năm 1989; ĐKNKTT: Phố N, thị trấn B, huyện M, tỉnh Hưng Yên) khai mượn chiếc xe của em gái là chị Ng để về quê; khi về đến thị trấn huyện M thì gặp và cho bạn là Nguyễn Trung D mượn. Anh Nguyễn Trung D khai ngày 25/11/2018, anh mượn chiếc xe môtô của anh D và ngày 02/12/2018 anh D cho Nguyễn Văn B mượn lại, không biết B sử dụng xe để vận chuyển ma túy. Ngày 22/4/2019, Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chị Ng chiếc xe môtô.
Đối với số tiền 60.000.000 đồng đã thu giữ: Nguyễn Văn B khai đó là tiền vay của chị Tưởng Thị Th (Là vợ B) để mua xe máy. Chị Tưởng Thị Th khai phù hợp với lời khai của B về nguồn gốc số tiền. Ngày 28/12/2018, Công an quận Đ ra quyết định trao trả chị Th số tiền trên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 224/2019/HSST ngày 23/7/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt Nguyễn Văn B: Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn B để bảo đảm thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vào ngày 26/7/2019, bị cáo Nguyễn Văn B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm cho rằng: Bị cáo Nguyễn Xuân B đã vận chuyển trái phép 662,41 gam Methamphetamine, bị cáo có nhân thân xấu, đã có án tích; lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 40 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Tử hình là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ nào mới do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Bị cáo khai nhặt được ma túy đem về sử dụng. Trong khi đó cơ quan điều tra không xác minh được người nhận nên bị cáo chỉ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt khác bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, trình độ văn hóa thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, có bác ruột là liệt sĩ, hoàn cảnh rất khó khăn, tại phiên tòa hôm nay gia đình bị cáo xuất trình chứng nhận bố bị cáo được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng ba, đề nghị HĐXX chuyển tội danh sang tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét.
[2] Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo thay đổi lời khai cho rằng bị cáo nhặt được ma túy đem về cất giấu để sử dụng, nhưng bị cáo lại khai là bị cáo không nghiện ma túy. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đều khai là vận chuyển thuê ma túy cho một người tên là T với tiền công là 3.000.000đ. Như vậy lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 04/12/2018 tại ngã ba phố H – Võ Văn D, phường Ô, quận Đ, Hà Nội, tổ công tác Công an thành phố Hà Nội đã bắt quả tang Nguyễn Văn B đang vận chuyển 33 túi nilon có tổng khối lượng là 662,41 gam Methamphetamine, chứ không phải là bị cáo nhặt được ma túy đem về cất giấu để sử dụng như bị cáo nêu ra. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và không có căn cứ để chuyển tội danh cho bị cáo là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị.
[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo nhận thấy: Mặc dù sau khi phạm tội bị cáo đã thảnh khẩn khai báo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nuôi con nhỏ, có bác ruột là liệt sĩ nhưng bị cáo đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy với khối lượng rất lớn (662, 41 gam Methamphetamine), bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nên cần phải xử phạt thật nghiêm khắc, loại bỏ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Tại phiên tòa hôm nay mặc dù gia đình bị cáo xuất trình chứng nhận là bố bị cáo được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng ba cũng không thể giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như yêu cầu kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn B, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 224/2019/HSST ngày 23/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt Nguyễn Văn B: Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn B để bảo đảm thi hành án.
Trong thời hạn 07 (Bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực, bị cáo có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm.
2. Bị cáo Nguyễn Văn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 675/2019/HSPT ngày 30/10/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 675/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về