TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 287/2019/HSPT NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 710/2018/TLPT-HS ngày 05 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Mã Chí D do Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 391/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Bị cáo bị kháng nghị: Mã Chí D (Tên gọi khác: X), sinh ngày 21 tháng 9 năm 1984 tại Thành phố H; Thường trú: 168/2 Lê Thị Bạch Cát, Phường 11, Quận 11, Thành phố H; Chỗ ở: 26C/40 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, Thành phố H ; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Mã Chấn Q và bà Giang Mỹ H; Chưa có vợ, con; Tiền án: Bản án số 99/HSST ngày 11/9/2014 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố H phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến ngày 19/9/2015 chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: không; Nhân thân: Bản án hình sự phúc thẩm số 14/PTHS ngày 12/01/2004 của Tòa Phúc thẩm - Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phạt 10 năm tù về tội “Giết người”, chấp hành hình phạt tù xong vào ngày 27/01/2010; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/8/2017 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Trần Quí Lễ - Văn phòng luật sư Đắc Tín thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 17 giờ 45 phút ngày 01/8/2017, tại quầy lễ tân khách sạn Hồ, số E9/14 Nguyễn Hữu Trí, thị trấn Tân Túc, huyện B, Thành phố H, Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ trên người Mã Chí D 04 gói nilon chứa ma túy thể rắn, khối lượng 124,2889 gam, loại Methamphetamine. Khám xét nơi ở của D tại số 26C/40 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11 thu giữ thêm 03 gói nilon chứa ma túy ở thể rắn, khối lượng 61,4473 gam loại Methamphetamine (Kết luận giám định số 1335/KLGĐ-H ngày 15/8/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H).
Quá trình điều tra, Mã Chí D khai nhận: Đầu tháng 7/2017, D quen một người tên H không rõ lai lịch thuê D đi giao ma túy cho khách, mỗi lần giao xong được trả tiền công 1.000.000 đồng. Khoảng 02 giờ ngày 01/8/2017, H điện thoại kêu D đến trước một cửa hàng vật liệu xây dựng trên đường Võ Văn Kiệt, Quận 5 lấy bịch ma túy H đã giấu trong kẽ đá tại đây. Sau khi lấy bịch ma túy, D đem về cất giấu tại nơi ở của mình. Đến chiều cùng ngày, H điện thoại kêu D đem số ma túy trên đến khách sạn Hồ giao cho một người tên H1, không rõ lai lịch và H1 sẽ trả tiền công cho D 1.000.000 đồng. Trước khi đi, D mở bịch ma túy ra xem thì thấy có 07 gói ma túy, D tự ý lấy 03 gói cất giấu tại nơi ở để sử dụng cho bản thân, còn lại 04 gói bỏ vào hộp giấy Cozy đem đến khách sạn Hồ để giao cho H1 nhưng chưa kịp giao thì bị bắt.
Tại Bản cáo trạng số 310/CT-VKS-P1 ngày 06/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố Mã Chí D về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 391/2018/HSST ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Mã Chí D phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm m khoản 2, điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Khoản 3 Điều 7, các điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Mã Chí D 10 (mười) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2017.
Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định số 57/QĐ-VKS-P1 ngày 05/11/2018 của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng hình phạt, không áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với Mã Chí D đối với cả hai tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Mã Chí D khai nhận mục đích bị cáo vận chuyển 07 gói ma túy nhưng chia làm 02 lần. Bị cáo để ở nhà 3 gói ma túy và vận chuyển 4 gói ma túy đến khách sạn Hồ thì bị bắt. Đề nghị xem xét bị cáo chỉ phạm một tội là vận chuyển trái phép chất ma túy. Bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo tương xứng nên đề nghị không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, xin không tăng nặng thêm hình phạt đối với bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét Bản án sơ thẩm đã vận dụng Nghị quyết số 41 của Quốc hội để xử phạt bị cáo 05 năm tù đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, vì khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt khởi điểm là 05 năm tù. Bị cáo luôn nhận tội, chỉ có việc khai báo chưa nhất quán mục đích của hành vi là mua bán hay vận chuyển trái phép chất ma túy. Bị cáo tự nguyện giao nộp tang vật là ma túy, do đó Bản án sơ thẩm đã áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có cơ sở. Ngoài ra, tuy bị cáo không kháng cáo nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mục đích của bị cáo vận chuyển cả 7 gói ma túy nên theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 thì bị cáo chỉ phạm một tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên kháng nghị và đề nghị xem xét Bản án sơ thẩm áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không đúng nên bị cáo không có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự; Đề nghị sửa Bản án sơ thẩm, phạt bị cáo 15 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 22 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H trong hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định vào ngày 01/8/2017, bị cáo Mã Chí D vận chuyển 04 gói nilon chứa ma túy thể rắn, khối lượng 124,2889 gam, loại Methamphetamine từ nơi ở của bị cáo đến khách sạn Hồ để giao cho khách thì bị bắt quả tang; Khám xét nơi ở của bị cáo thu giữ thêm 03 gói nilon chứa ma túy ở thể rắn, khối lượng 61,4473 gam loại Methamphetamine. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm e khoản 3 và điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội. Bị cáo bị bắt khi vận chuyển 4 gói ma túy và tàng trữ tại nơi ở của bị cáo 3 gói ma túy để sử dụng cho bản thân, nên không có căn cứ để chấp nhận lời đề nghị của luật sư và bị cáo cho rằng bị cáo chỉ phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đối với cả 7 gói ma túy.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử phạt nghiêm. Không có việc từ lời khai của bị cáo đã giúp cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc điều tra tội phạm, nhưng Bản án sơ thẩm lại áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là không đúng; Bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên không đủ điều kiện để được xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Do vậy, chấp nhận kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt đối với mỗi tội là thỏa đáng.
Lời bào chữa của luật sư cho rằng Bản án sơ thẩm đã vận dụng khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo 05 năm tù đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không có cơ sở, vì bị cáo tàng trữ 61,4473 gam loại Methamphetamine theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phạt bổ sung; xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Chấp nhận kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 391/2018/HSST ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H.
2. Áp dụng điểm m khoản 2, điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Khoản 3 Điều 7, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Mã Chí D phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Mã Chí D 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 22 (Hai mươi hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/8/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phạt bổ sung; xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 287/2019/HSPT ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 287/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về