Bản án 83/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 83/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Thái Quốc H (tên gọi khác: Ben) - sinh năm 1997 tại Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 163 đường Q - thị trấn K - huyện K - Khánh Hòa; Chỗ ở:

08 đường Đ - phường S - tp. N - Khánh Hòa; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thái B (1961) và bà Phan Thị Tuyết Đ (1959); Tiền sự, tiền án: không; bắt tạm giam từ ngày 16/10/2020; Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Nguyễn Trí T - sinh năm 1996 - Chủ hộ kinh doanh N Trú tại: thôn D - phường Đ - thị xã H - Khánh Hòa; Vắng mặt.

Công ty cổ phần N Địa chỉ: Tòa nhà M - lô T2 - 1.2 đường D1 Khu C - phường P - quận 9 - tp.

H; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Phan Tử Th - sinh năm 1985 Nơi ĐKNKTT: thôn T - xã P - tp. N - Khánh Hòa.

Trú tại: 03 đường C - phường H - tp. N - Khánh Hòa; Có mặt

Nguyễn Văn P - sinh năm 1991 Nơi ĐKNKTT: thôn T - xã P - tp. N - Khánh Hòa.

Trú tại: đường C - thôn T2 - xã T - tp. N - Khánh Hòa; Vắng mặt.

Võ Thị Kim O - sinh năm 1985 Trú tại: thôn A - xã A - huyện K - Khánh Hòa; Vắng mặt.

Lê Ngọc D - sinh năm 1995 Nơi ĐKNKTT: thôn H - xã T - huyện T - Phú Yên Trú tại: tổ 1 thôn B - xã T - tp. N - Khánh Hòa; Vắng mặt.

Phan Thị Tuyết Đ - sinh năm 1959 Trú tại: 08 đường Đ - phường S - tp. N - Khánh Hòa; Có mặt

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Lương Văn T - sinh năm 1995; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thái Quốc H là nhân viên cũ của quán N ở số 73 đường T - phường T - tp. N, đã nghỉ việc vào đầu tháng 3/2020 nhưng vẫn còn giữ một điều khiển từ xa khóa cửa điện tử của Spa. Do cần tiền tiêu dùng, H lợi dụng quán N đóng cửa vì không có khách, không có người trông coi trong thời gian nghỉ phòng dịch bệnh Covid rồi dùng điều khiển từ xa khóa điện tử mở cửa Tree Spa vào bên trong thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 05 lần, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 15/3/2020, H lấy trộm một bộ máy tính bàn ASUS. Sau đó, H đem đến cửa hàng máy tính tại tổ 4 - xã T - tp. Nha Trang bán cho anh Nguyễn Văn P với giá 2.700.000đ.

Lần 2: Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 16/3/2020, H lấy trộm một bộ máy tính bàn ASUS, 01 máy in Canon LBP 2900. Sau đó, H tiếp tục mang đến cửa hàng máy tính tại tổ 4 - xã T - tp. Nha Trang bán cho anh P với giá 3.400.000đ.

Lần 3: Khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 17/3/2020, H lấy trộm một máy giặt Panasonic 10kg, 01 máy sấy Electrolux, 01 tủ lạnh LG 475 lít. Sau đó, H thuê xe ô tô chở đến bán cho chị Võ Thị Kim O ở nhà tại số 15 xã T - tp. Nha Trang với giá 10.000.000đ.

Lần 4: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 21/3/2020, H lấy trộm 01 tủ lạnh Panasonic 234 lít, 01 máy lọc nước Media. H bán cho anh Lê Ngọc D (trú tại: tổ 1 thôn B - xã T - tp. Nha Trang) với giá 2.500.000đ và để anh D đến quán N tự tháo dỡ và chở tài sản trên.

Lần 5: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 23/3/2020, H lấy trộm 01 máy điều hòa Panasonic 2HP, 01 máy điều hòa Panasonic 2.5HP và tiếp tục bán cho anh D với giá 4.000.000đ, đồng thời để anh D đến quán N tự tháo dỡ, chở tài sản trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 276/KL-HĐĐGTS ngày 15/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố N kết luận: 02 bộ máy tính ASUS H310 trị giá 15.181.000đ; 01 máy in Canon LBP 2900 trị giá 2.802.500đ; 01 máy giặt Panasonic - NA F100A4GRV trị giá 7.115.500đ;

01 máy sấy Electrolux - EDV805JQWA trị giá 8.540.500đ; 01 tủ lạnh LG - Inverter GM D602BL trị giá 10.792.800đ; 01 tủ lạnh Panasonic Inverter NR- BL267 trị giá 5.459.300đ; 01 máy lọc nước Media - JL1131S-RO O2 trị giá 1.900.000đ; 01 máy điều hòa Panasonic 2HP-C18PKH-8 trị gá 3.358.000đ; 01 máy điều hòa Panasonic 2.5HP-C24PKH-8 trị giá 6.198.000đ.

Tổng giá trị tài sản là 61.347.600đ.

Qua điều tra, phát hiện H còn thực hiện vụ trộm cắp ngày 04/6/2020, vào lúc 07 giờ 00 phút, Thái Quốc H đã đi xe Cup, mặc áo có gắn logo Công ty cổ phần N, đeo khẩu trang tới tiệm điện thoại N số 01 đường C - phường P - tp. N, H gặp và nói với anh Lương Văn T là nhân viên ở đây, H là nhân viên Công ty cổ phần N đường Q tới hỗ trợ, rồi H vào lau chùi các tủ kính. Khi T đi ăn sáng về kiểm tra thấy mất 01 điện thoại di động Iphone 11 pro max 65GB để trên kệ trưng bày. Qua kiểm tra camera thấy H đã lấy trộm điện thoại trên. Sau khi lấy trộm điện thoại, H đã mang đến tiệm cầm đồ T ở địa chỉ: 03 đường C - phường H - tp. N cầm thế cho anh Phan Tử Th với giá 21.000.000đ. Khi cầm thế, anh Th không biết đây là tài sản trộm cắp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 283/KL-HĐĐGTS ngày 20/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố N kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 11pro max 64GB là 33.990.000đ.

Tại bản cáo trạng số 92/CT-VKS-NT ngày 30/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Thái Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H từ 03 năm tù đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự: các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tiền và tài sản. Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt nên nếu sau này có yêu cầu sẽ khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác. Về vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi màu vàng, trên túi áo ngực trái thêu logo Công ty cổ phần N. Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị hại Nguyễn Trí T, Công ty cổ phần N, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn P, Võ Thị Kim O, Lê Ngọc D, người làm chứng Lương Văn T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, hồ sơ thể hiện rõ lời khai của những người này nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người người này.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định vào các ngày 15, 16, 17, 21, 23/3/2020 và ngày 04/6/2020, lợi dụng sự sơ hở của bị hại, bị cáo đã nhiều lần lén lút lấy của quán N 02 bộ máy tính ASUS H310, 01 máy in Canon LBP 2900, 01 máy giặt Panasonic - NA F100A4GRV, 01 máy sấy Electrolux - EDV805JQWA, 01 tủ lạnh LG - Inverter GM D602BL, 01 tủ lạnh Panasonic Inverter NR-BL267, 01 máy lọc nước Media - JL1131S-RO O2, 01 máy điều hòa Panasonic 2HP-C18PKH-8, 01 máy điều hòa Panasonic 2.5HP-C24PKH-8 và lấy của cửa hàng N 01 điện thoại di động Iphone 11pro max 64GB. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, lấy việc trộm cắp tài sản của người khác để có tiền tiêu dùng cho bản thân. Chỉ trong một thời gian ngắn, bị cáo đã thực hiện 06 lần trộm cắp tài sản, mỗi lần trộm cắp tài sản đều có giá trị trên 2.000.000đ. Tổng giá trị của 06 lần trộm cắp là 95.337.600đ. Hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, chưa tiền sự tiền án, bị cáo tác động gia đình bồi thường toàn bộ cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Các ông, bà Phan Tử Th, Nguyễn Văn P, Võ Thị Kim O, Lê Ngọc D khi mua, nhận cầm thế tài sản không biết những tài sản này là do bị cáo H trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Những bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt đã nhận lại tài sản, được bồi thường và không có yêu cầu gì. Anh Th, bà Đ có mặt nhưng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng : Chiếc áo sơ mi màu vàng có in logo Công ty cổ phần N bị cáo mặc để phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Thái Quốc H (Ben).

Xử phạt : bị cáo Thái Quốc H (Ben) 03 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù về tộiTrộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Không xét phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo Thái Quốc H với bị hại Nguyễn Trí T, Công ty cổ phần N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Tử Th, Nguyễn Văn P, Võ Thị Kim O, Lê Ngọc D, Phan Thị Tuyết Đ.

Về vật chứng : Áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) áo sơ mi màu vàng in logo Công ty cổ phần N. (Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

Về án phí : Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Thái Quốc H nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:83/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về