Bản án 83/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 83/2020/HS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 57/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê T, sinh năm: 2000 tại tỉnh Bình Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 49, tổ 4, khu 1, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Chỗ ở: Tổ 2, khu phố Chánh Lộc 5, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quan Đức và bà Cao Thị Kim Thảo; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2019 cho đến nay, có mặt.

2. Họ và tên: Trần Quốc Anh D (tên gọi khác: D đen), sinh năm: 1982 tại tỉnh Bình Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 22/3, đường N, tổ 44, khu 7, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc Trung (đã chết) và bà Chung Thị T; có vợ Phan Thị Trúc L và 01 người con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 07/6/20XX, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xử phạt bị cáo D 01 năm tù về Tội trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 121/20XX/HSST. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2019 cho đến nay, có mặt.

Nhân thân:

- Năm 2002, bị Công an thị xã Thủ Dầu Một (Nay là thành phố Thủ Dầu Một) tỉnh Bình Dương xử phạt vi phạm hành chính, bằng hình thức đưa vào trường giáo dưỡng, về hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 24/11/2002 chấp hành xong hình phạt.

- Năm 2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, xử phạt tiền 6.000.000 đồng về Tội đánh bạc, theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 tại Bản án hình sự sơ thẩm số 88/HSST ngày 15/5/2003 (Đương nhiên được xóa án tích do số tiền dùng đánh bạc dưới 5.000.000 đồng).

- Năm 2006, bị Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một (Nay là thành phố Thủ Dầu Một), tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về Tội đánh bạc, theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 tại Bản án hình sự sơ thẩm số 80/HSST ngày XX/7/2006 (Đương nhiên được xóa án tích do số tiền dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng).

- Năm 2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, (Nay là thành phố Thủ Dầu Một), tỉnh Bình Dương xử phạt 36 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 tại Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2008/HSST ngày 04/6/2008, chấp hành án tại Trại tạm giam An Phước, ngày 23/7/2008 đã đóng án phí hình sự sơ thẩm, theo biên lai số 008125, đến ngày 01/6/2010 chấp hành xong hình phạt tù (Đã xóa án tích).

- Năm 2013, bị Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Vận cHển trái phép chất ma túy, phạt tiền 750.000 đồng.

- Năm 2015, bị Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, phạt tiền 1.500.000 đồng.

Bị hại:

1. Anh Tạ Minh C, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp B, xã V, Hện T, tỉnh Sóc Trăng.

Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Tuyết V, sinh năm 1992; địa chỉ: Khu phố 9, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Điện tử Tin học H; địa chỉ: Số 224/2, khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo pháp luật: Anh Huỳnh Việt T, sinh năm 1986, địa chỉ: Số 304/9, khu 2, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê T và Trần Quốc Anh D là bạn, cả hai đều nghiện ma túy và không có nghề nghiệp. Trong các ngày 16/5/2019 và ngày 27/10/2019, T và D cùng đồng phạm khác là Đỗ Quốc H đã thực hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/5/2019, Đỗ Quốc H, sinh năm 2000, ngụ tại số thành phố Hồ Chí Minh điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Satria, biển số 59C1 – 972.XX chở Lê T đi từ phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đến phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một để uống cà phê. Khi đến địa bàn phường Phú Lợi thì H rủ T cùng đi tìm tài sản của người khác để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài thì T đồng ý. Tiếp đó, H chở T đi đến khu nhà trọ địa chỉ tại số XX8/23/15, khu 7, phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì thấy xung quanh vắng người nên H dừng xe lại, mở cốp xe lấy 01 cây tuốc nơ vít, cán bằng nhựa màu đen, đầu bằng kim loại đưa cho Lê T để T đi vào khu nhà trọ tìm tài sản lấy trộm còn H đứng bên ngoài cảnh giới. Khi T đến phòng số 19 của anh Tạ Minh C, sinh năm 1993, ngụ tại ấp Bưng Sa, xã Viên An, Hện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng thuê ở đang trong trạng thái cửa khóa ngoài nên T dùng tuốc nơ vít cạy bung ổ khóa và đi vào bên trong, mở cửa tủ gỗ lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen, có số sêri YB02487392 rồi ra ngoài, lên ngồi sau xe mô tô biên số 59C1 – 972.XX cho H điều khiển chở đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn Điện tử Tin học H, địa chỉ tại số 224/2, khu phố Thạnh Lợi, phường An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương và bán chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen, có số sêri YB02487392 cho anh Huỳnh Việt T, sinh năm 1986, ngụ tại số 304/9, khu 2, phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là người đại diện theo pháp luật của Công ty H được số tiền 2.000.000 đồng. Số tiền trên, H và T chia mỗi người 1.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết.

Đến 15 giờ cùng ngày 16/5/2019, anh Tạ Minh C đi làm về đến phòng trọ thì phát hiện cửa phòng trọ bị cạy khóa và tiến hành kiểm tra thì phát hiện bị mất trộm 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen anh C để trong tủ gỗ, sau đó qua kiểm tra camera an ninh thì anh C phát hiện có 02 thanh niên đến phòng trọ số 19 của anh C thuê ở lấy trộm chiếc máy tính xách tay nên anh C đã đến Công an phường Phú Lợi trình báo sự việc.

Qua kiểm tra hình ảnh và tiến hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh ban đầu, Công an phường Phú Lợi xác định đối tượng có nhân thân là Lê T, sinh năm 2000, cư trú tại tổ 2, khu phố Chánh Lộc 5, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là đối tượng khả nghi nên ngày 03/6/2019 Công an phường Phú Lợi yêu cầu T về trụ sở làm việc. Tại đây, T đã khai nhận T bộ hành vi cùng đối tượng Đỗ Quốc H lén lút trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen, có số sêri YB02487392 của anh Tạ Minh C, tại phòng trọ số 19 thuộc khu nhà trọ địa chỉ tại số XX8/23/15, khu 7, phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Cùng ngày 03/6/2019, Công an thành phố Thủ Dầu Một cHển hồ sơ vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 191/KLTS-TTHS ngày 06/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo màu đen, có số sêri YB02487392, trị giá 3.500.000 đồng.

Đối với Lê T thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 16/5/2019, do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một tiến hành thụ lý và xác minh tin báo nên chưa ra quyết định khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với T.

Đối với Đỗ Quốc H có hành vi lấy trộm tài sản cùng với Lê T và chiếc xe mô tô hiệu Suzuki Satria biển số 59C1 – 972.XX mà H sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm cùng với Lê T vào ngày 16/5/2019. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tách vụ án, giải quyết Lê T trong vụ án này, còn Đỗ Quốc H sẽ giải quyết trong vụ án khác do H cùng với một số đồng phạm khác thực hiện nhiều vụ trộm cắp khác trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Đối với anh Huỳnh Việt T có hành vi mua chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen do T và H bán. Quá trình điều tra, xác định: T không biết đây là tài sản do T và H phạm tội mà có nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh T. Anh T tự nguyện giao nộp chiếc máy tính xách tay trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một và anh T không yêu cầu T, H phải trả lại số tiền mà anh T đã bỏ ra để mua máy.

Quá trình điều tra, ngày 05/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một giao trả chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen, có số sêri YB02487392 cho anh Tạ Minh C và anh C không yêu cầu bồi thường gì thêm đối với H và T.

Vụ thứ hai:

Khoảng 10 giờ ngày 27/10/2019, chị Nguyễn Thị Tuyết V, sinh năm 1992, ngụ tại khu phố 9, phường Hiệp An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, biển số 61B1 – 672.XX, màu đen, số khung 5808EY8353XX, số máy JF58Eo8354XX đến dựng trước sân nhà số 43, tổ 2, khu phố Chánh Lộc 5, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, rồi đi nhà hàng để dự đám cưới (nhà không có cổng rào).

Do nhà Lê T, địa chỉ thuộc tổ 2, khu phố Chánh Lộc 5, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đối diện với nhà số 43, tổ 2, khu phố Chánh Lộc 5, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (Nơi chị V dựng chiếc xe mô tô hiệu Vision biển số 61B1 – 672.XX) nên T thấy chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 61B1 – 672.XX dựng trước sân không người trông giữ thì T nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô của chị V bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định trên, khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27/10/2019, T điện thoại cho Trần Quốc Anh D nói “Em có chiếc xe Vision màu đen, nhờ anh kiếm ai bán dùm” thì D đồng ý nên T chỉ đường cho D đến vị trí chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 61B1 – 672.XX. Khi D đến, T đi vào trong sân nhà số 43 rồi quan sát thấy vắng người xung quanh nên ra hiệu cho D đi vào trong sân dùng tay bứt dây điện, nổ máy điều khiển xe chạy đến tỉnh Tây Ninh bán xe lấy tiền. Trong lúc lấy trộm xe thì D có nói với T khi nào bán được xe thì D sẽ chia tiền cho T thì T đồng ý.

Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày 27/10/2019, chị Nguyễn Thị Tuyết V dự xong đám cưới ra về thì phát hiện chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 61B1 – 672.XX bị mất. Sau khi kiểm tra cemara theo dõi thì thấy có 02 thanh niên vào sân lấy xe mô tô và nghi ngờ Lê T (ở nhà đối diện) là một trong hai thanh niên lấy trộm xe nên chị V đến Công an phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một trình báo sự việc. Đến 19 giờ cùng ngày 27/10/2019, Công an phường Chánh Mỹ yêu cầu T về trụ sở làm việc thì T khai nhận hành vi cùng Trần Quốc Anh D lấy trộm xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 61B1 – 672.XX của chị Nguyễn Thị Tuyết V. Sau đó, Công an phường Chánh Mỹ cho T liên hệ kêu D đem xe mô tô biển số 61B1 – 672.XX về trả cho chị V.

Ngày 30/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một yêu cầu Trần Quốc Anh D đến trụ sở làm việc thì D thừa nhận T bộ hành vi phạm tội cùng với Lê T.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 306/KLTS ngày 30/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đen, biển số 61B1 – 672.XX, trị giá 23.800.000 đồng.

Ngày 20/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một lập biên bản giao trả chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đen, biển số 61B1 – 672.XX, số khung 5808EY8353XX, số máy JF58Eo8354XX cho chị Nguyễn Thị Tuyết V, theo Quyết định xử lý vật chứng số 43 ngày 20/11/2019 và chị V có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Lê T.

Cáo trạng số 78/CT-VKS-HS ngày 18/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố các bị cáo Lê T và Trần Quốc Anh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều XX3 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều XX3; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T; áp dụng khoản 1 Điều XX3; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D; xử phạt: Bị cáo T mức hình phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, bị cáo D mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét, giải quyết.

Về biện pháp tư pháp: Không có.

Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận T bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 16/5/2019 tại khu nhà trọ địa chỉ số XX8/23/15, khu 7, phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Lê T và Đỗ Quốc H có hành vi lén lút lấy trộm một chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu đen, có số sơ ri YB02487392, trị giá 3.500.000 đồng của anh Tạ Minh C.

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27/10/2019 tại nhà số 43, tổ 2, khu phố Chánh Lộc 5, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Lê T và Trần Quốc Anh D có hành vi lén lút lấy trộm một xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đen, biển số 61B1 – 672.XX, số khung 5808EY8353XX, số máy JF58Eo8354XX, trị giá 23.800.000 đồng của chị Nguyễn Thị Tuyết V.

Do đó, hành vi mà các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều XX3 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội đến cùng.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T 02 lần thực hiện hành vi phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Năm 20XX, bị cáo D đã bị kết án nhưng chưa được xóa án, nay lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý, đây là tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo đã tự nguyện trả lại tài sản cho bị hại và bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T và điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo D.

[6] Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo T là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo D là nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo, cần có mức hình phạt nhẹ hơn để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[8] Về biện pháp tư pháp: Không có.

[9] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố Bị cáo Lê T và bị cáo Trần Quốc Anh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 2/ Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều XX3; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/10/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều XX3; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quốc Anh D 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/10/2019.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

4/ Về biện pháp tư pháp: Không có.

5/ Về án phí: Buộc mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

435
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:83/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về