Bản án 83/2020/HS-PT ngày 20/05/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 83/2020/HS-PT NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 373/2019/TLPT-HS ngày 05-11-2019 đối với bị cáo Nguyễn Dư P về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 53/2019/HSST ngày 07/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Dư P, sinh ngày 23 tháng 6 năm 1981, tại Thừa Thiên Huế; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Thừa Thiên Huế; Chỗ ở: tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; T giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Dư P và bà Nguyễn Thị D; Có vợ và hai con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 83/2008/HS-ST ngày 12/6/2008 của Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/3/2009; Chấp hành nghĩa vụ khác của bản án ngày 31/12/2008); Bị bắt giữ ngày 17/6/2018; Tạm giam ngày 20/6/2018. Có mặt.

2. Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Văn T, Luật sư, Văn phòng luật sư L và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa; Địa chỉ: Khánh Hòa. Có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Hồng H, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1978 (vào ngày 06/6/2018 được phát hiện đã chết);

Đi diện hợp pháp của bị hại:

1. Anh Lê Xuân H, sinh năm 1976; Nơi cư trú: thành phố Hải Phòng

2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1943;

3. Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1945;

Đều cư trú tại: tỉnh Khánh Hòa.Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sau khi mượn của chị Nguyễn Hồng H 100.000.000đ vào khoảng giữa tháng 5/2018, Nguyễn Dư P nhiều lần bị chị H tìm để đòi nợ nên nảy sinh ý định giết chị H. Khoảng 18 giờ ngày 04/6/2018, P hẹn gặp chị H tại siêu thị V - C để trả tiền cho chị H. Khi gặp chị H, P giả vờ nói để P chở chị H ra khu vực B, huyện C tìm người đưa tiền cho P để trả nợ cho chị H, chị H đồng ý. Sau đó, P điều khiển xe máy 79C1-405.71 của chị H chở chị H ra khu đất trống tại đường N2, C, C, C, Khánh Hòa. Tại đây, P và chị H cãi nhau, P dùng tay đánh vào mặt chị H làm chị H ngã xuống đất rồi P đè lên người chị H, bóp miệng và dùng tay lấy cát nhét vào miệng chị H cho đến khi thấy chị H nằm bất động. Sau khi giết chị H, P kéo chị H vào trong bụi cây gần đó, dùng lá khô và cành cây phủ lên để giấu xác rồi điều khiển xe máy của chị H về thành phố C. Trên đường về, P dừng xe trên Quốc lộ 1A (đoạn trước Lữ đoàn X huyện C) ném bóp của chị H xuống mương nước bên đường rồi tiếp tục chạy xe về khu vực C ở T, C, Khánh Hòa, dựng xe máy ngoài đường, rút chìa khóa xe rồi đi bộ về nhà.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 252/TT-TTPY ngày 12/6/2018, Trung tâm Pháp y, Sở Y tế Khánh Hòa kết luận nguyên nhân tử vong của chị Nguyễn Hồng H: “Suy hô hấp do ngạt (nước và cát) trên cơ thể chấn thương sọ não và đầu - mặt - cổ”.

Tại bản Cáo trạng số 06/CT-VKSKH-P1 ngày 29/01/2019, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố Nguyễn Dư P về tội “Giết người” (đối với hành vi dùng tay đánh vào mặt chị H làm chị H ngã xuống đất, dùng tay bóp miệng và bỏ cát vào miệng chị H làm chị H tử vong) theo điểm n, q khoản 1 Điều 123 Bộ luật hinh sự với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo là “thành khẩn khai bảo, ăn năn hối cải” quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 53/2019/HSST ngày 07 - 10 - 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:

Căn cứ các Điểm n, q Khoản 1 Điều 123, các Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Nguyễn Dư P tù Chung thân về tội “Giết người”; Thời hạn .tù tính từ ngày bắt giữ (17/6/2018).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 16/10/2019, Bị cáo Nguyễn Dư P kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại tình tiết tăng nặng động cơ đê hèn quy định tại điểm q khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Dư P, giữ nguyên bản án sơ thẩm, với hai tình tiết định khung: “có tính chất côn đồ” và “vì động cơ đê hèn”.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “ Giết người”, bị cáo nhận tội, chỉ kháng cáo điểm Q- vì động cơ đê hèn, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc và xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận chính bị cáo đã gây ra cái chết cho người bị hại Nguyễn Hồng H, hậu quả nghiêm trọng, bị cáo xin lỗi gia đình bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Dư P khai nhận hành vi phạm tội của mình và thừa nhận Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người và đúng tội danh và hành vi mà bị cáo đã thực hiện, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Toà cấp phúc thẩm xem xét lại tình tiết vì động cơ đê hèn.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp của bị hại, những người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ khác do cơ quan điêu tra thu thập được, đã đủ cơ sở xác định: Ngày 04/6/2018, giữa bị cáo Nguyễn Dư P và người bị hại Nguyễn Hồng H đã cãi vã nhau về việc thanh toán tiền trả nợ nên bị cáo tát, đánh chị H vào vùng đầu, vùng mặt, nhét cát vào miệng chị H, hậu quả chị H chết. Theo kết luận giám định: Nguyên nhân tử vong của bị hại Nguyễn Hồng H do suy hô hấp do ngạt (nước và cát) trên cơ thể chấn thương sọ não và đầu- mặt- cổ. Với hành vi phạm tội đó, Toà án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo về tội “Giết người”, thuộc trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ và vì động cơ đê hèn quy định tại điểm n, q khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo cho rằng đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại tình tiết phạm tội của bị cáo “vì động cơ đê hèn”. Thấy rằng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bị cáo thừa nhận có nợ chị H 100.000.000 đồng. Tại biên bản ghi lời khai ngày 18/6/2018 (BL 68,69), bị cáo thừa nhận: “ giữa tôi và chị H có liên quan đến tiền, tôi có mượn chị H 02 lần với tổng số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng); tại biên bản hỏi cung bị can ngày 03/12/2018 (BL74,75- có luật sư Lê Văn T tham gia), bị cáo khai: “ trước khi gây án khoảng 2 tuần tôi có mượn của chị Nguyễn Hồng H 100 triệu đồng”. Tại biên bản ghi lời khai ngày 07/01/2019 (BL 278), chị Trương Thị Minh Thảo khai: “ Tôi là vợ anh P, trong thời gian P bị tạm giam, tôi có vào thăm, qua trao đổi thì được biết P có nợ chị Nguyễn Hồng H, sinh 1978 ( là người đã bị P giết) số tiền 100 triệu đồng nên tôi đã rút tiền và trả cho đại diện của chị H là anh Đức số tiền trên”. Và việc xâu ẩu, P đánh bị hại, nhét cát vào miệng và đã gây ra cái chết cho bị hại vào ngày 4/6/2018; nguyên nhân của sự việc này, tại biên bản ghi lời khai vào lúc 15h15 ngày 18/6/2018 (BL 68,69 ) bị cáo P khai: “ Đến khoảng 18h 30 phút cùng ngày, như đã hẹn tôi đi bộ đến siêu thị để gặp chị H nhưng do không có tiền trả nên tôi nảy sinh kiếm lý do chở chị H đi nơi khác chờ cơ hội ra tay sát hại, giết chị H...” Như vậy, việc bị cáo giết chị H xuất phát từ việc nợ tiền chị H, cải vã nhau về thanh toán do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết giết người “vì động cơ đê hèn” như cấp sơ thẩm xét xử là đúng.

Từ phân tích, lập luận trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy kháng cáo của bị cáo Nguyễn Dư P không có cơ sở nên không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm như quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng tại phiên toà hôm nay. Yêu cầu giảm hình phạt của bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí lệ phí Toà án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị (về dân sự, án phí sơ thẩm, xử lý vật chứng) có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Dư P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ các điểm n, q khoản 1 Điều 123, các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Nguyễn Dư P tù Chung thân về tội “Giết người”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (17/6/2018).

2. Về án phí phúc thẩm hình sự: Bị cáo Nguyễn Dư P phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm hình sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2020/HS-PT ngày 20/05/2020 về tội giết người

Số hiệu:83/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về