Bản án 83/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 83/2019/HS-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2019 tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Trương Hoàng V; sinh năm 1982 tại Thành phố H; nơi đăng ký thường trú: 138 đường Tr, Phường 4, Quận U, Thành phố H; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Làm công; trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Hoàng E (sinh năm 1962, còn sống) và bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1962, còn sống); tiền án: Ngày 24/8/2005, “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân Quận L, xử phạt 05 năm, theo bản án số 197/2005/HSST ngày 21/11/2005. Bị can chấp hành án đến ngày 24/7/2009; Ngày 13/10/2009, “Cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh L, xử phạt 05 năm, theo bản án số 11/2010/HSST ngày 05/02/2010. Bị can chấp hành án đến ngày 29/3/2014; ngày 06/12/2015, “Trộm cắp tài sản”, bị Tòa án nhân dân Quận L, xử phạt 03 năm, theo bản án số 77/2017/HSST ngày 05/4/2017; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/11/1999, “Mua bán trái phép chất ma túy” bị Tòa án nhân dân Thành phố H, xử phạt 05 năm tù, theo bản án số 2197/HSST ngày 24/9/1999, bị can chấp hành án đến ngày 29/4/2003; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/02/2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Xuân H; sinh năm 1987 tại Thành phố H; nơi đăng ký thường trú: 514 đường H, Phường 9, Quận L, Thành phố H; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hồng S (sinh năm 1957, còn sống) và bà Võ Ngọc Lệ H (sinh năm 1965, còn sống); tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 23/5/2016, bị Tòa án nhân dân huyện B, áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 21 tháng, theo quyết định số 216/QĐ-TA; Ngày 15/6/2014 Trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện B, xử phạt 01 năm tù, theo bản án số 299/2014/HSST ngày 04/9/2014. Bị can chấp hành xong hình phạt, hết án tha; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/02/2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 25/02/2019, Tổ tuần tra Công an Phường 4, Quận I đang tuần tra trên địa bàn. Khi đến trước nhà số 5 đường L, Phường 4, Quận I, phát hiện Lê Xuân H điều khiển xe 51L7 – 8205 phía sau chở Trương Hoàng V đi ngược chiều có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Thu giữ trong túi quần phía sau bên trái của Trương Hoàng V 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, 02 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 điện thoại di động hiệu LG, 01 xe hiệu Future biển số 51L7 – 8205 và 650.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; thu giữ của Lê Xuân H 01 điện thoại di động hiệu Masster, giao Công an Phường 4, Quận 11 lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với Lê Xuân H, Trương Hoàng V chuyển Công an Quận I xử lý.

Theo kết luận giám định số 626/KLGĐ-H ngày 06/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H (PC09) xác định: Tinh thể không màu trong gói nylon thu giữ của Trương Hoàng V là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1419 gr, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an Quận I, Trương Hoàng V, Lê Xuân H khai nhận: Vào khoảng 21 giờ ngày 25/02/2019, Trương Hoàng V gặp và rủ H mua ma túy về cùng nhau sử dụng. H đồng ý, Vân đưa cho H số tiền 300.000 đồng. H điều khiển xe biển số 51L7 – 8205 chở V đến khu vực cầu Ch, Quận L, Vân đứng ngoài chờ còn H đi vào trong hẻm gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch), hỏi mua 01 gói ma túy với giá tiền là 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H chở V đến khu đất trống bên hông kho hàng trên đường Ph để cùng nhau sử dụng. Số ma túy còn lại V cất vào trong túi quần phía sau bên trái, rồi H chở V đến Quận I mua màn hình điện thoại di động thì bị Công an Quận I, kiểm tra phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói được niêm phong ghi vụ số 626 có chữ ký của giám định viên, bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Masster, thu giữ của Lê Xuân H.

- 02 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 điện thoại di động hiệu LG (cả 04 điện thoại không mở được nguồn) và 650.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thu giữ của Trương Hoàng V.

- 01 xe hiệu Future biển số 51L7 – 8205, có số máy: 050543-FHM, số khung: 000543-UM61 thu giữ của Trương Hoàng V. Qua xác minh do ông Trương Hoàng E, sinh năm: 1962, ngụ: 752 đường H, Phường 12, Quận L làm chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận I tiến hành trưng cầu giám định số khung, số máy chiếc xe mang biển số 51L7 – 8205. Theo kết luận giám định số: 4499/KLGĐ-X(Đ6) ngày 03/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H thì số khung không thay đổi; số máy bị đục lại số, không xác định được số nguyên thủy. Trương Hoàng V khai mượn chiếc xe trên của ông Trương Hoàng E, là cha của V để làm phương tiện chạy xe ôm. Hiện ông E đã bán nhà chuyển nơi ở mới, không rõ nên chưa lấy lời khai làm rõ được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận I đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả.

Bản cáo trạng số 77/CT-VKSQI ngày 15 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận I truy tố bị cáo Trương Hoàng V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o, khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự và Lê Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận I trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Trương Hoàng V mức án 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, Lê Xuân H mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù; đồng thời đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói được niêm phong ghi vụ số 626 có chữ ký của giám định viên, bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.

+ Trả cho bị cáo Lê Xuân H 01 điện thoại di động hiệu Masster.

+ Trả cho bị cáo Trương Hoàng V 02 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 điện thoại di động hiệu LG (cả 04 điện thoại không mở được nguồn) và 650.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 chiếc xe hiệu Future biển số 51L7 – 8205.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tung:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận I, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận I, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Trương Hoàng V, Lê Xuân H đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an Quận I, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận I, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của các bị cáo Trương Hoàng V, Lê Xuân H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của nhà nước về các chất ma túy, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo do lười lao động thích được hưởng thụ nên đã sớm đi vào con đường nghiện ngập. Mặt khác ma túy còn làm người sử dụng tự hủy hoại bản thân mà còn ảnh hưởng đến kinh tế gia đình làm cho xã hội phải gánh chịu hậu quả to lớn do ma túy để lại, góp phần làm gia tăng các loại tội phạm khác, làm lây lan những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đối với người nghiện ma túy.

Mặc dù các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng các bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian cách ly các bị cáo khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo học tập, cải tạo phấn đấu trở thành người tốt hơn, từ bỏ con đường nghiện ngập, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo Trương Hoàng V, Lê Xuân H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân với tổng khối lượng là 0,1419 gram, loại Methamphetamine. Bị cáo Trương Hoàng V đã có 03 tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, thuộc tình tiết định khung tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận I truy tố bị cáo Trương Hoàng V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o, khoản 2, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở và đúng quy định pháp luật. Bị cáo Lê Xuân H có nhân thân xấu và là đối tượng nghiện ma túy. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận I truy tố bị cáo Lê Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở và đúng quy định pháp luật.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên miễn phạt bổ sung.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói ma túy đã niêm phong, có chữ ký giám định viên, theo kết luận giám định số 626/KLGĐ-H ngày 06/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận: Tinh thể không màu trong gói nylon thu giữ của Trương Hoàng V là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1419 gr, loại Methamphetamine là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy;

- Trả cho bị cáo Lê Xuân H 01 điện thoại di động hiệu Masster.

- Trả cho bị cáo Trương Hoàng V 02 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 điện thoại di động hiệu LG (cả 04 điện thoại không mở được nguồn) và 650.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 chiếc xe hiệu Future biển số 51L7 – 8205.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trương Hoàng Vân, Lê Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điều 50; điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt: Trương Hoàng V 06 (sáu) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 25/02/2019.

Căn cứ vào Điều 50; điểm c khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Lê Xuân H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 25/02/2019.

Căn cứ vào điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói ma túy đã niêm phong, có chữ ký giám định viên, theo kết luận giám định số 626/KLGĐ-H ngày 06/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận: Tinh thể không màu trong gói nylon thu giữ của Trương Hoàng V là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1419 gr, loại Methamphetamine.

- Trả cho bị cáo Lê Xuân H 01 điện thoại di động hiệu Masster.

- Trả cho bị cáo Trương Hoàng V 02 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 điện thoại di động hiệu LG (cả 04 điện thoại không mở được nguồn) và 650.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 chiếc xe hiệu Future biển số 51L7 – 8205.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 30/MT ngày 28/02/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận I).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về