Bản án 83/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 83/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 76/2019/TLST-HS ngày 12/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2019/QĐXXST-HS ngày 07/10/2019 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Tiến L, sinh năm 1957; tên gọi khác: Không; ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm 4, xã Ng, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 7/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Văn T và bà Vũ Thị T (đều đã chết); gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; vợ là: Tạ Thị V, sinh năm 1958; trú tại: Xóm 4, xã Ng, huyện N, tỉnh Nam Định; có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1978, con nhỏ nhất sinh năm 1987; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Nguyễn Tiến L bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh, thời hạn từ ngày 12/6/2019 đến ngày 09/10/2019.

- Nguyên đơn dân sự: Sở Lao động, thương binh & xã hội tỉnh Nam Định;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phòng Lao động, thương binh & xã hội huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định;

Tại phiên tòa bị cáo L có mặt; đại diện Sở Lao động, thương binh & xã hội tỉnh Nam Định và Phòng Lao động, thương binh & xã hội huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Điều tra, xác minh theo kiến nghị của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Nam Định và điều tra mở rộng của Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Nam Định đối với các trường hợp sử dụng giấy tờ giả đưa vào hồ sơ hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước dành cho người có công với cách mạng, Cơ quan ANĐT thấy Nguyễn Tiến L, sinh năm 1957, trú tại xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định không đi bộ đội, sử dụng giấy tờ giả để lập hồ sơ, được xét duyệt hưởng chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Ngày 23/4/2019, Cơ quan ANĐT Bộ công an có thông báo số 452/ANĐT-P3 về việc Bộ trưởng Bộ công an đồng ý giao Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Nam Định tiến hành điều tra đối với trường hợp ông Nguyễn Tiến L sử dụng giấy tờ giả để lập hồ sơ hưởng chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học của Nguyễn Tiến L do sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Nam Định cung cấp có các giấy tờ làm căn cứ xét duyệt để hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước:

- Bản khai cá nhân:

+ Nhập ngũ tháng 10/1974, đơn vị: D5 E148F316; Thời gian ở chiến trường từ tháng 12 năm 1974 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975; Địa bàn hoạt động: Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

+ Bản thân có bệnh do nhiễm chất độc hóa học: Suy nhược thần kinh hay bị choáng, hai mắt mờ, thị L giảm hẳn, hai tai điếc nhẹ, thoái hóa 3 đốt sống cổ, suy giảm khả năng lao động, có con đẻ là Nguyễn Văn Mạnh, sinh năm 1981, tay phải 6 ngón đầu xương phát triển không bình thường (đầu bẹt), bệnh thần kinh bẩm sinh, đề ngày 10/4/2008.

- Giấy chứng nhận XYZ mang tên Nguyễn Tiến L - Giấy xác nhận về tình trạng bệnh tật, khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật của người tham gia kháng chiến.

- Biên bản xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học của UBND xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

- Giấy xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học UBND xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

- Giấy chứng nhận sức khỏe.

- Biên bản giám định bệnh tật.

Quá trình điều tra, Nguyễn Tiến L khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Thời điểm năm 2008 Uỷ ban nhân dân xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định thông báo có đợt xét duyệt hồ sơ dành cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Mặc dù bản thân không có quá trình tham gia trong quân đội nhưng Nguyễn Tiến L đã chủ động tìm hiểu thông tin trên báo, đài và một số người đã phục vụ trong quân đội, từng tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, L biết đối tượng nộp hồ sơ xin xét duyệt phải có quá trình tham gia quân đội, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia trước 30/4/1975, phải có giấy tờ chứng minh do đơn vị quân đội cấp; bản thân hoặc con đẻ bị bệnh tật do tác động ảnh hưởng bởi chất độc hóa học. Qua tìm hiểu, L biết đơn vị E148F316 có thời gian chiến đấu tại chiến trường miền Nam nên L đã tự kê khai bản thân có thời gian công tác tại đơn vị từ tháng 12 năm 1974 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 ( thời gian này trùng với thời gian L học tại Trường công nhân kỹ thuật xây lắp hóa chất ở Lâm Thao, Vĩnh Phúc). Để có giấy tờ chứng minh tham gia trong quân đội, L mua của ông Nguyễn Thanh Th, trú tại xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Hưng 01 giấy chứng nhận XYZ với giá 70.000đ đưa vào hồ sơ, nội dung viết trong giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ do L tự cung cấp, ông Th viết theo nội dung yêu cầu của L. Sau đó, L đến trạm y tế xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng gặp ông Lưu Văn Nh, Trạm trưởng Trạm y tế xin xác nhận con đẻ là Nguyễn Tiến Mạnh có 6 ngón tay ở bàn tay phải, bị bệnh thần kinh bẩm sinh. Nội dung viết trong bản xác nhận tình trạng bệnh tật của người tham gia kháng chiến và con đẻ người tham gia kháng chiến là do L nhờ ông Nh viết theo nội dung L tự cung cấp.

Sau khi hoàn thiện hồ sơ, L nộp tại Ban lao động thương binh và xã hội xã Nghĩa Thái. Đến tháng 2 năm 2009 L có Quyết định được hưởng chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (Thời gian hưởng từ tháng 02 năm 2009 đến tháng 4 năm 2019 với tổng số tiền là 236.685.800đ). Ngày 01/4/2019 Nguyễn Tiến L có đơn thừa nhận bản thân không tham gia kháng chiến chống Mỹ, đã mua giấy tờ XYZ giả, xác nhận tình trạng con đẻ bị bệnh thần kinh bẩm sinh đã lừa dối cơ quan Nhà nước, làm hồ sơ hưởng chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Ngày 03/5/2019, Nguyễn Tiến L nộp khắc phục số tiền chiếm hưởng trái phép là 50.000.000đ. Số tiền chiếm hưởng trái phép còn lại xin tiếp tục khắc phục sau (BL 131-144; 159- 168) - Tại bản thông báo kết quả giám định số 85/GĐKTHS-P11 ngày 01/4/2019 Phòng giám định kỹ thuật hình sự Bộ quốc phòng kết luận: Giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ số 105/GCN đề ngày 30/5/1975 ghi của ông Nguyễn Tiến L…” Chữ in phôi tài liệu có sử dụng các font chữ “VnCenturySchoolbook” và “VnCenturySchoolbookH” trong bảng mã “TCVN3(ABC)” để thiết kế chế bản. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Bộ gõ Tiếng Việt là loại phần mềm hỗ trợ soạn thảo văn bản bằng Tiếng Việt trên máy tính thực hiện từ năm 1992 đến nay (BL 81-82).

- Tại bản Kết luận giám định số 346 ngày 02/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Chữ viết trên tài liệu cần giám định so với chữ viết đứng tên Nguyễn Thanh Th trên tài liệu mẫu là do cùng một người viết ra (BL 86).

+ Tại biên bản giám định y khoa ngày 12/4/2019 của Hội đồng giám định y khoa tỉnh Nam Định giám định và kết luận Nguyễn Văn Mạnh: Không bị chậm phát triển tâm thần, không mắc bệnh thần kinh bẩm sinh, tay phải 6 ngón (BL 89) - Trung đoàn 148-Sư đoàn 316 (Đơn vị E148F316) cung cấp: Qua kiểm tra hồ sơ lưu giữ tại bộ phận Quân L của Trung đoàn 148 (nơi L khai tham gia quân đội từ tháng 12/1974 đến 30/4/1975); đối với các loại sổ có liên quan đến quá trình công tác của quân nhân, hiện không còn lưu giữ được vì thời gian quá lâu, đơn vị chuyển nhiều địa bàn, chỉ lưu giữ sổ danh sách quân nhân xuất ngũ các năm kiểm tra không thấy có tên Nguyễn Tiến L, quê quán: Nghĩa Thái, Nghĩa Hưng, Nam Định (BL 92). Giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ không có cơ sở hay tài liệu nào để xác minh là giấy chứng nhận do Trung đoàn cấp.

- Ban chỉ huy quân sự huyện Nghĩa Hưng cung cấp: Qua kiểm tra, rà soát sổ đăng ký quân nhân dự bị hạng 1 hiện còn lưu giữ được tại Ban chỉ huy quân sự huyện Nghĩa Hưng, không có tên Nguyễn Tiến L.

- Trường Cao đẳng Công nghiệp hóa chất cung cấp: Trường Cao đẳng Công nghiệp hóa chất tiền thân là Trường Công nhân Kỹ thuật Hóa chất được thành lập ngày 15/5/1973, không phải là trường Công nhân kỹ thuật xây lắp hóa chất nên không cung cấp được thông tin cho Cơ quan an ninh điều tra (BL 95,96).

Ban Lao động TB&XH xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cung cấp: Nguyễn Tiến L có tên trong danh sách chi trả chế độ trợ cấp hàng tháng của Nhà nước dành cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, số tiền trợ cấp hàng tháng L đã nhận từ tháng 02/2009 đến tháng 4/2019 là 236.685.800đ (Hai trăm ba mươi sáu triệu, sáu trăm tám lăm nghìn, tám trăm đồng). Ngày 01/4/2019, L đến Ban lao động TB&XH xã Nghĩa Thái nộp đơn xin thôi hưởng chế độ chất độc da cam. Ngày 19/4/2019, Sở lao động TB&XH tỉnh Nam Định ra Quyết định số 3243/QĐ-SLĐTB&XH về việc đình chỉ chế độ, thu hồi trợ cấp người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độ hóa học đối với Nguyễn Tiến L và phải thu hồi số tiền từ tháng 02/2009 đến tháng 4/2019 là 236.685.800 đồng.

1.2 Những nội dung khác liên quan đến vụ án:

Về giấy chứng nhận XYZ L khai mua của Nguyễn Thanh Th. Nguyễn Thanh Th, sinh năm 1949, trú tại xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định khai: Th và L không quen biết nhau, năm 2008, L đến hỏi mua Giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ. Bản thân không có bản phôi sẵn nên đã điện thoại cho Đồng Hải T nhà ở Phố Mới, xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định mua với giá 60.000đ (Sáu mươi nghìn đồng); Sau đó về nhà tự viết thông tin của ông L vào giấy chứng nhận và bán cho ông L với giá 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng). Th không biết L mua giấy XYZ làm gì, L không nói cho Th biết; Hành vi mua bán giấy tờ của Th đã bị xử lý trong vụ án “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” thể hiện tại Bản án số 26/2016/HSST ngày 22/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định thể hiện nội dung “Ngoài việc bán cho Nguyễn Văn Hà, Th còn bán cho một số người khác nhưng không nhớ tên và địa chỉ”. Do vậy, không đề cập xử lý đối với hành vi bán giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ giả của Th trong vụ án này.

Đồng Hải T, sinh năm 1957, trú tại Phố mới, xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định khai nhận: Bản thân T có hành vi mua, bán phôi, giấy tờ giả cho người khác từ năm 2006 đến năm 2010. Khi được cho xem giấy chứng nhận XYZ của Nguyễn Tiến L, T xác nhận đúng là bản phôi của giấy chứng nhận bản thân đã bán cho Th ở gần nhà với giá 60.000đ. Sau đó Th về hoàn thiện thông tin và bán cho ai T không biết. Nguồn gốc T mua phôi của Đỗ Quang K với giá 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) (BL 170-174). Hành vi mua bán giấy tờ của T đã bị xử lý trong vụ án “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” thể hiện tại Bản án số 26/2016/HSST ngày 22/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định thể hiện nội dung “Ngoài việc bán cho Nguyễn Văn H, T còn bán cho một số người khác nhưng không nhớ tên và địa chỉ”. Do vậy, không đề cập xử lý đối với hành vi bán giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ giả của T trong vụ án này.

Xác minh Đỗ Quang K, sinh năm 1953, trú tại xã Nam Thái, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, xác định K đã bị bệnh tim, ốm chết năm 2015 (BL 181- 182).

- Đối với Lưu Văn Nh, sinh năm 1970, Trạm trưởng Trạm y tế xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định khai nhận: Năm 2008, L một mình đến Trạm y tế xã Nghĩa Thái xin xác nhận về tình trạng bị dị dạng, dị tật đối với con đẻ. L đưa cho Nh xem một số phiếu khám bệnh, phản ánh quá trình điều trị bệnh của con trai là Nguyễn Văn Mạnh, hiện Mạnh đang làm ăn ở Cần Thơ không về được, nhờ Nh xác nhận. Do trước đây Nh cũng có biết tình hình sức khỏe của cháu Mạnh hay ốm yếu, ở bàn tay phải cháu có 6 ngón tay nên khi L đề nghị Nh ghi Mạnh bị bệnh thần kinh bẩm sinh, vì nể nang nên Nh đã xác nhận theo đề nghị của L. Nh không biết L có quá trình tham gia quân đội hay không, không biết việc L xác nhận để kê khai hồ sơ giả để hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước. Xác nhận xong, Nh không để ý, cũng không được L thông báo dùng kết quả này để làm việc gì cụ thể và ông Nh không nhận bất cứ khoản bồi dưỡng, chi phí gì từ L (BL 222,223,224). Do vậy, không đủ căn cứ để xử lý Nh đồng phạm với L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tài liệu, vật chứng đã thu giữ:

+ Ngày 15/3/2019, Sở lao động TB&XH tỉnh Nam Định bàn giao giấy chứng nhận có thời gian công tác XYZ (bản gốc) mang tên Nguyễn Tiến L.

+ Ngày 03/5/2019, Nguyễn Tiến L nộp 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) tiền chiếm hưởng trái phép để khắc phục hậu quả.

Cáo trạng số 64/CT-VKS-P1 ngày 08/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo Nguyễn Tiến L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa đã luận tội đối với bị cáo sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị HĐXX:

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến L từ 30 đến 36 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải hoàn trả cho Sở Lao động, thương binh và xã hội tỉnh Nam Định toàn bộ số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt sau khi đối trừ đi số tiền 50 triệu đồng mà bị cáo đã tự nguyện nộp.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nguyễn Tiến L không đi bộ đội thời kỳ trước 30/4/1975 nhưng đã thực hiện hành vi mua các loại giấy tờ giả, kê khai tình trạng sức khỏe của con đẻ bị bệnh thần kinh bẩm sinh nhưng thực tế con đẻ không bị bệnh thần kinh bẩm sinh, để thiết lập hồ sơ nhằm lừa dối cơ quan Nhà nước xét duyệt để được hưởng chế độ trợ cấp ưu đãi đối với người tham gia hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và đã hưởng chế độ trợ cấp từ tháng 02/2009 đến tháng 4/2019, chiếm đoạt trái phép của Nhà nước là 236.685.800đ (Hai trăm ba mươi sáu triệu, sáu trăm tám lăm nghìn, tám trăm đồng).

[3] Như vậy hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tiến L đã có đủ các yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999; như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đã truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của nhà nước, đồng thời tác động xấu đến tình hình trật tự trị an và an toàn xã hội, bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng L pháp luật hình sự cũng như khả năng nhận thức về những điều cấm của pháp luật trong việc bảo vệ quyền sở hữu về tài sản. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm minh đối với bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các tình tiết, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo L có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; tự nguyện nộp tiền khắc phục một phần hậu quả. Do vậy, cần xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm b, p Khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Ngoài ra theo kết luận của Bệnh viện Bạch Mai cho thấy, hiện nay bản thân bị cáo bị bệnh đau ngực không ổn định/ Stent mạch vành. Do vậy, cần xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999.

Về tình tiết, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Về tình tiết, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong vụ án này số tiền mà bị cáo lừa đảo chiếm đoạt là khoản trợ cấp của Nhà nước đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, do vậy khoản tiền trên được xác định là tài sản của Nhà nước, lẽ ra bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xâm phạm tài sản của Nhà nước” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999; Tuy nhiên theo quy định của BLHS năm 2015 cụ thể tại Điều 52 đã bỏ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này; Vì vậy cần áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, HĐXX xét thấy bị cáo Nguyễn Tiến L không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xâm phạm tài sản của Nhà nước” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999.

[5] Xét thấy bị cáo L là người có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Do đó cần áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt; nhưng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến L phải trả lại cho Sở Lao động, thương binh & xã hội tỉnh Nam Định số tiền 236.685.800 đồng, để nộp lại ngân sách Nhà nước theo quy định, được đối trừ đi số tiền 50.000.000 đồng mà bị cáo đã tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả. Số tiền bị cáo còn phải nộp là 186.685.800 đồng.

[8] Về án phí:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với số tiền án phí dân sự sơ thẩm: Xét đơn xin giảm án phí của bị cáo Nguyễn Tiến L, cho thấy hiện nay bản thân bị cáo tuổi cao, bị bệnh đau ngực không ổn định/ Stent mạch vành điều kiện kinh tế gia đình bị cáo gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy cần giảm cho bị cáo 50% số tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139; Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 BLHS năm 1999; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến L 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999.

Buộc bị cáo Nguyễn Tiến L phải trả lại cho Sở Lao động, thương binh & xã hội tỉnh Nam Định số tiền 236.685.800đ (Hai trăm ba mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi năm nghìn tám trăm đồng), để nộp lại ngân sách Nhà nước theo quy định; được đối trừ đi số tiền 50.000.000 đồng mà bị cáo đã nộp tại (Ủy nhiệm chi số 32 ngày 27/8/2019 giữa Công an tỉnh Nam Định với Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam Định). Số tiền bị cáo còn phải nộp là 186.685.800 đ (Một trăm tám mươi sáu triệu sáu trăm tám mươi năm nghìn tám trăm đồng)

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 13 Nghị Quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Tiến L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Buộc bị cáo phải nộp 4.667.000 đ (Bốn triệu sáu trăm sáu mươi bẩy nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, đã báo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn dân sự - Sở Lao động, thương binh & xã hội tỉnh Nam Định; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Phòng Lao động, thương binh & xã hội huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:83/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về