Bản án 83/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 83/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 88/2017/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Giàng Thị N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1989; trú tại: Bản P C, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La; dân tộc: Mông; trình độ văn hoá: Không biết chữ; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Giàng A V (đã chết); con bà Vàng Thị M, sinh năm 1963 (hiện đang chấp hành án tại trại giam Tân Lập, tỉnh Phú Thọ); có chồng là Tráng A C, sinh năm 1985 (Hiện đang chấp hành án tại trại giam Yên Hạ, tỉnh Sơn La) và 03 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 20 tháng 6 năm 2017 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

 Người phiên dịch: Anh Sồng A P, sinh năm 1985, trú tại: Tiểu khu 10, thị trấn M C, huyện M C, tỉnh Sơn La

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 20/6/2017, tổ công tác Công an huyện V H, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại bản P C, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La tiến hành kiểm tra Giàng Thị N, sinh năm 1989, trú tại Bản P C, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La, quá trình kiểm tra phát hiện Giàng Thị N đang cất giấu trong người 01 chiếc tất màu đỏ, bên trong có một lọ nhựa màu trắng có nắp đậy đựng 03 gói nilon màu xanh chứa chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 04 viên nén màu hồng bề mặt các viên đều có chữ WY. N khai nhận đó là 03 gói Hêrôin và 01 gói Hồng phiến của N tàng trữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Căn cứ vào hành vi vi phạm, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, tạm giữ của Giàng Thị N 700.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V H đã ra lệnh và thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở và đồ vật của Giàng Thị N. Kết quả không phát hiện thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành cân tịnh, xác định trọng lượng số chất bột màu trắng và số viên nén màu hồng thu giữ của Giàng Thị N, kết quả như sau: gói thứ nhất có trọng lượng 0,44 gam, lấy 0,04 gam làm mẫu ký hiệu “N”; gói thứ hai có trọng lượng 0,65 gam, lấy 0,02 gam làm mẫu ký hiệu “N2”, gói thứ 3 có trọng lượng 0,21 gam, lấy 0,04 gam làm mẫu giám định ký hiệu “N4”; gói nilon màu xanh đựng 04 viên nén màu hồng có trọng lượng 0,38 gam, lấy 02 viên trọng lượng 0,19 gam làm mẫu ký hiệu “N6”. Các mẫu ký hiệu “N, N2, N4, N6” trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy.

Tại kết luận giám đinh số: 660/KLMT ngày 23/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu “N, N2, N4,” là chất ma túy; loại chất Hêrôin; Tổng trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu “N6” là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng trọng lượng ma túy thu giữ là 1,30 gam, loại chất Hêrôin và 0,38 gam loại chất Methamphetamine”.

Tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa Giàng Thị N khai nhận: Bản thân N nghiện ma túy, khoảng 15 giờ ngày 18/6/2017 Giàng Thị N một mình đi bộ từ nhà đến bản A, xã Xuân N mục đích tìm mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Tại đường dân sinh bản A, xã Xuân N, huyện V H, Giàng Thị N đã gặp và hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 60 tuổi không quen biết được một gói Hêrôin được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá với giá 500.000 đồng; 01 gói nilon màu xanh chứa 10 viên Hồng phiến với giá 400.000 đồng. N mang gói Hêrôin và gói Hồng phiến đi bộ về nhà chia gói Hêrôin thành các gói nhỏ, bên ngoài đều gói bằng mảnh nilon màu xanh rồi cho vào một chiếc lọ nhựa màu trắng có nắp đậy. N cho chiếc lọ nhựa và 01 gói Hồng phiến vào một chiếc tất rồi mang theo bên mình. N đã bán cho một người đàn ông không quen biết một gói Hêrôin với giá 100.000 đồng. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 20/6/2017 khi N đi làm nương về đến bản P C, xã V H thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 07/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Giàng Thị N về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V H giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng Thị N từ 36 (ba mươi sáu) tháng đến 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Giàng Thị N. Về vật chứng đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c, đ khoản 2, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 1,2 gam Hêrôin và 0,19 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; tịch thu tiêu hủy 01 chiếc tất trẻ em màu đỏ đen đã qua sử dụng; tịch thu sung công quỹ nhà nước 100.000 đồng của bị cáo; tạm giữ 200.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án; trả lại bị cáo 400.000 đồng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy;

Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Giàng Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

Về hành vi của bị cáo Giàng Thị N: Tại phiên tòa bị cáo Giàng Thị N khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 20/6/2017, bị cáo Giàng Thị N đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,30 gam Hêrôin và 0,38 gam Methamphetamine mục đích là để sử dụng và bán kiếm lời. Giàng Thị N đã bán cho một người đàn ông không quen biết 01 gói Hêrôin thu lời bất chính 100.000 đồng. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Giàng Thị N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự như quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên toà của Kiểm sát viên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần vận dụng khoản 1 điều 194 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tù đối với bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc Mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bản thân nghiện chất ma túy, gia đình bị cáo hiện có mẹ chồng và chồng bị cáo đang chấp hành hình phạt tù về tội ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình, do hám lợi nên phạm tội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo là phụ nữ dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Giàng Thị N đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Giàng Thị N còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ, theo lời khai của Giàng Thị N mua của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 60 tuổi mà Giàng Thị N không quen biết nên không có căn cứ xử lý người đã bán ma túy cho Giàng Thị N.

Đối với người đàn ông không quen biết đã mua ma túy của Giàng Thị N do không biết tên, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra, làm rõ và xử lý.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 1,2 gam Hêrôin và 0,19 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 chiếc tất trẻ em màu đỏ đen xanh đã qua sử dụng là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 100.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền do phạm tội mà có nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Đối với 600.000 đồng tiền thu giữ còn lại tuy không liên quan đến việc phạm tội nhưng cần tuyên tạm giữ 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho bị cáo Giàng Thị N 400.000 đồng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng Thị N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Giàng Thị N 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2017 (là ngày bị bắt tạm giam, giữ đối với bị cáo).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c, đ khoản 2, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 1,2 gam Hêrôin và 0,19 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; tịch thu tiêu hủy 01 chiếc tất trẻ em màu đỏ đen xanh đã qua sử dụng.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 100.000 đồng của bị cáo Giàng Thị N

Tạm giữ của bị cáo Giàng Thị N 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Trả lại bị cáo Giàng Thị N 400.000 đồng.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về