Bản án 83/2017/HSST ngày 24/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 83/2017/HSST NGÀY 24/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/7/2017, tại Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 49/2017/HSST ngày 10 tháng 5 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Minh Ph, sinh năm 1991 tại Đồng Nai; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký HKTT: ấp V, xã S, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Lê Minh P, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1970; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự: Ngày 26 tháng 12 năm 2016 bị Công an xã S, huyện L xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 48/QĐ-XPHC. Đã đóng tiền phạt vi phạm hành chính theo quy định; Ngày 02/3/2017 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Xuân Lộc.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Lê Minh P, sinh năm 1967. Trú tại: ấp V, xã S, huyện L, tỉnh Đồng Nai.(Có mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 08 giờ 00 ngày 02 tháng 03 năm 2017, Lê Minh Ph gọi điện thoại cho đối tượng tên T (không rõ nhân thân lai lịch) để hỏi mua ma túy tổng hợp với số tiền 2.000.000 đồng, T đồng ý và hẹn Ph đến khu vực Trạm kiểm dịch thú y thuộc ấp 7, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai để giao dịch mua bán trái phép chất ma túy. Ph điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter, biển số 60B5- 300.36 màu đỏ-đen, chở theo hai người bạn là Nguyễn Cao T, sinh năm 1999, ngụ tại ấp H, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai và Đỗ Thị Bích C, sinh năm 2000, ngụ tại ấp H1, xã T, huyện L, Đồng Nai đến chỗ hẹn. Việc Ph hẹn mua ma túy thì T và C hoàn toàn không biết. Khi đến chỗ hẹn, Ph dừng xe đứng chờ thì có một thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) điều khiển xe mô tô Dream màu đen (không rõ biển số) đến đưa cho Ph 02 gói ma túy tổng hợp, Ph đưa lại cho người này số tiền 2.000.000 đồng. Ph lấy 02 gói ma túy tổng hợp bỏ vào túi quần jeans đang mặc và tiếp tục điều khiển xe chở T và C quay lại, chạy vào đường hồ Núi Le để đưa Chi về nhà tại xã T. Khoảng 09 giờ cùng ngày, khi đi đến khu 7, thị trấn G, huyện L thì gặp lực lượng Công an tuần tra phát hiện xe mô tô chở 3 người nên Công an yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Trong lúc kiểm tra cốp xe, Công an phát hiện có dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp thì Ph liền lấy 02 gói ma túy đang cất giấu trong túi quần ra vứt xuống đất nên bị bắt quả tang. Qua làm việc, Ph khai nhận số ma túy tổng hợp trên Ph vừa mua về với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nilon, màu trắng, hàn kín, kích thước 4x6cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng; - 01 gói nilon, màu trắng, hàn kín, kích thước 4x4cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng;

- 01 nỏ thủy tinh đã dùng để sử dụng ma túy đá;

- 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, đã cũ, bị bể hai góc màn hình;

- 02 quẹt gas màu xanh đã qua sử dụng;

- 02 ống hút nước màu đen gắn vào nắp chai màu đỏ;

- 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đỏ-đen, biển số 60B5-300.36

Tại bản kết luận giám định số 61/PC54-GĐMT ngày 08 tháng 03 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Tinh thể màu trắng chứa trong mẫu M được niêm phong gửi đến giám định có trọng lượng là 4,3678 gam, có chứa Methamphetamine, là chất ma túy nằm trong Danh mục II, msố thứ tự 67, Nghị định 82 ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ;

Mẫu vật sau giám định có trọng lượng: 4,1556 gam. 

Tại bản kết luận giám định số 222/PC54-GĐMT ngày 23 tháng 6 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu M có hàm lượng Methamphetamine: 58,52%. Trọng lượng Methamphetamine trong 4,3678gam mẫu là 2,5560gam.

Tại bản cáo trạng số: 65/CT-VKS-HS ngày 08/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố bị cáo Lê Minh Ph, về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc giữ nguyên cáo trạng và đề nghị: xử phạt bị cáo Lê Minh Ph từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Lê Minh Ph khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Vào lúc khoảng 09 giờ ngày 02/03/2017, tại khu 7, thị trấn G, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Công an huyện Xuân Lộc tiến hành kiểm tra, bắt quả tang Lê Minh Ph có hành vi tàng trữ trên người 02 gói nilon, màu trắng, hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, Ph khai là ma túy tổng hợp mua về để sử dụng. Tại bản kết luận giám định số 61/PC54-GĐMT ngày 08/03/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Tinh thể màu trắng chứa trong mẫu M có trọng lượng là 4,3678 gam, có chứa Methamphetamine, là chất ma túy nằm trong Danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82 ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ.

Tại bản kết luận giám định số 222/PC54-GĐMT ngày 23 tháng 6 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu M có hàm lượng Methamphetamine: 58,52%. Trọng lượng Methamphetamine trong 4,3678gam mẫu là 2,5560gam.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ ánvà bản kết luận giám định. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Minh Ph đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo nhận thấy:

Mặc dù bị cáo biết rõ ma túy là một loại biệt dược được Nhà nước thống nhất quản lý hết sức chặt chẽ, mọi hành vi liên quan trái phép đến ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nếu vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm bằng luật Bộ luật hình sự. Nhưng chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đi ngược lại với lợi ích chung của xã hội, vì ma túy là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại về tài sản, tiền của, sự ổn định bền vững của gia đình. Ngoài ra ma túy còn là nguồn lây lan nhiều căn bệnh nguy hiểm, làm suy đồi đạo đức xã hội, đe dọa sự tồn vong của giống nòi, là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm về hình sự. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm i, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước nên áp dụng Nghị quyết số 144 ngày 29/6/2016 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đối với Nguyễn Cao T, Đỗ Thị Bích C đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

* Đối với người thanh niên T, ngụ tại xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai đã bán ma túy cho Ph, do không xác định được nhân thân lai lịch nên không có có cơ sở để xử lý.

* Đối với ông Lê Minh P, là chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đỏ-đen, biển số 60B5-300.36 do không biết việc Ph dùng xe mô tô để đi mua ma túy nên không xử lý là phù hợp.

* Vật chứng vụ án:

+ 01 Ph bì được niêm số 222/PC54-GĐMT ngày 12/7/2017 cuûa Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 nỏ thủy tinh đã dùng để sử dụng ma túy đá; 02 quẹt gas màu xanh đã qua sử dụng; 02 ống hút nước màu đen gắn vào nắp chai màu đỏ, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

+ Tịch thu sung công: 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, đã cũ, bị bể hai góc màn hình sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

* Về án phí: bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Minh Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 144 ngày 29/6/2016 của Quốc hội.

Xử phạt: bị cáo Lê Minh Ph 01 (Một) năm 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/3/2017.

Vật chứng: Áp dụng Điều 41, 42 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong số 222/PC54-GĐMT ngày 12/7/2017 cuûa Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 nỏ thủy tinh đã dùng để sử dụng ma túy đá; 02 quẹt gas màu xanh đã qua sử dụng; 02 ống hút nước màu đen gắn vào nắp chai màu đỏ.

Tịch thu sung công: 1 điện thoại Iphone 5 màu đen, đã cũ, bị bể hai góc màn hình (Đặc điểm tang vật theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/5/2017).

Về án phí: Buộc bị cáo Lê Minh Ph nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2017/HSST ngày 24/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về