Bản án 83/2017/HSST ngày 17/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 83/2017/HSST NGÀY 17/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 11 năm 2017, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 79/2017/HSST, ngày 26 tháng 10 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hứa Văn T1, sinh năm 1989

Nơi đăng ký NKTT: Xóm HH, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12;

Nghề nghiệp: Không; Con ông: Hứa Văn L, sinh năm 1961 và con bà Vũ Thị L, sinh năm 1963; Gia đình có 4 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Vợ, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/6/2017 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Phan Thị C, sinh năm 1968 – Có mặt.

Trú tại: Xóm P, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên

Người làm chứng: Ông Lưu Chí T, sinh năm 1960

Trú tại: Xóm CM, xã VH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên. Anh Hứa Văn T2, sinh năm 1988

Anh Vi Văn T, sinh năm 1981

Đều trú tại: Xóm LĐ, xã VH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

Anh Đặng Văn T, sinh năm 1986

Trú tại: Xóm H, xã CT, huyện ĐH, tỉnh TN.

Đều vắng mặt tại phiên tòa

NHẬN THẤY

Bị cáo Hứa Văn T1 bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Håi 13 giê 15 phút ngày 28/6/2017, tổ công tác Công an huyện Đồng Hỷ làm nhiệm vụ tại khu vực xóm CM, xã VH, huyện ĐH phát hiện một nam thanh niên đang điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy (sau xác định là Hứa Văn T1). Tổ công tác dừng xe mô tô của T1 để kiểm tra. Qua kiểm tra đã phát hiện tại tay trái T1 đang cầm một lọ thủy tinh hình trụ mầu nâu kích thước 3 x 6(cm) bên trong có 10 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc mầu vàng, bên trong đều chứa chất bột mầu trắng (T1 khai nhận đó là Hêrôin). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T1 và thu giữ vật chứng gồm: 10 gói nhỏ chứa chất bột mầu trắng, 01 chiếc điện thoại NOKIA, 100.000 đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, mầu đỏ BKS: 20L2 - 6548.

Cùng ngày tiến hành cân xác định trọng lượng số chất bột mầu trắng thu giữ của T1 là 0,44g.

Hồi 16 giờ 10 phút ngày 28/6/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện  Đồng Hỷ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hứa Văn T1 tại xóm HH, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên, kết quả không phát hiện thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 824/ KL- PC45 ngày 05/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Số chất bột mầu trắng thu giữ của Hứa Văn T1 là chất ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng 0,44g.

Tại cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra, Hứa Văn T1 khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy, thường xuyên đi mua ma túy của người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại khu vực bến xe khách Thái Nguyên cũ, để sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện khác kiếm lời, lần gần nhất là ngày 27/6/2017, T1 mua của người đàn ông trên 01 gói Hêrôin với giá 500.000đ. Trong khoảng thời gian từ ngày 23/6/2017 đến ngày 26/6/2017, tại khu vực xóm CM, xã VH, huyện ĐH, T1 đã nhiều lần bán Hêrôin cho các đối tượng nghiện cụ thể:

Lần 1: Khoảng 11giờ ngày 23/6/2017, T1 đã bán cho Hứa Văn T2 (sinh năm 1988) và Vi Văn T (sinh năm 1981), đều trú quán: xóm LĐ, xã VH, huyện ĐH mỗi người 1 gói Hêrôin với giá 100.000đ/1gói. 

Lần 2: Khoảng 16 giờ ngày 23/6/2017, T1 bán cho T2 một gói Hêrôin với giá 100.000đ.

Lần 3: Khoảng 20 giờ ngày 26/6/2017, T1 bán cho Đặng Văn T (sinh năm 1986, Trú quán: xóm H, xã CT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên) 1gói Hêrôin với giá 100.000đ.

Vật chứng của vụ án gồm: 02 bì niêm phong kí hiệu A1, LK; 01 xe mô tô BKS 20L2 - 6548, 01điện thoại NOKIA đã qua sử dụng và 100.000đ.   Hiện đang được quản lý tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ chờ xử lý.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Hứa Văn T1 thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng.

Tại phiên tòa hôm nay, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị C khai: Chị mua chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, mầu đỏ BKS: 20L2 - 6548, chị mua lại của chị Nguyễn Thị T ở xóm CB, xã LH để làm phương tiện đi lại, khi mua chỉ viết giấy tờ mua bán viết tay, chị chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Ngày 28/6/2017 T1 mượn xe của chị đi có việc, chị không biết T1 dùng xe của chị đi mua, bán ma túy bị công an bắt. Chị đề nghị Tòa án xem xét trả lại cho chị chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại.

Tại bản cáo trạng số 87/ KSĐT - MT ngày 26/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Hứa Văn T1 về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đồng  Hỷ đã trình bày lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hứa Văn T1 phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

-  Áp dụng: Điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 BLHS xử phạt bị cáo Hứa Văn T1 tõ 8 đến 9 năm tï. Phạt bổ sung bị cáo từ 5 đến 6 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 41 Bộ luật hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia.

Trả lại cho chị Phan Thị C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, mầu đỏ BKS 20L2 - 6548.

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo số tiền 100.000 đồng.

Truy thu số tiền 400.000 đồng do bị cáo bán ma túy.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Hứa Văn T1 phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị C không có ý kiến tranh luận gì.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án như: Biên bản phạm tội quả tang, Bản kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập trong quá trình điều tra. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Vào hồi 13 giờ 15 phút ngày 28/6/2017, tổ công tác Công an huyện Đồng Hỷ làm nhiệm vụ tại khu vực xóm CM, xã VH, huyện ĐH phát hiện bắt quả tang Hứa Văn T1 đang tàng trữ 0,44 gam Hêrôin mục đích để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ một số vật chứng liên quan. Quá trình điều tra bị cáo Hứa Văn T1 đã tự giác khai nhận trong các ngày từ ngày 23/6/2017 đến ngày 26/6/2017 tại khu vực xóm CM, xã VH, huyện ĐH, Hứa Văn T1 đã nhiều lần bán Hêrôin cho các đối tượng nghiện khác kiếm lời, cụ thể:

Khoảng 11 giờ ngày 23/6/2017, T1 đã bán cho Hứa Văn T2 (sinh năm 1988) và Vi Văn T (sinh năm 1981). Đều trú quán: xóm LĐ, xã VH, huyện ĐH,tỉnh Thái Nguyên mỗi người 1gói Hêrôin với giá 100.000đ/1gói

Khoảng 16 giờ ngày 23/6/2017, T1 tiếp tục bán cho T một gói Hêrôin với giá 100.000đ.

Khoảng 20 giờ ngày 26/6/2017, T1 bán cho Đặng Văn T (sinh năm 1986, Trú quán: xóm H, xã CT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên) 1 gói Hêrôin với giá 100.000đ.

Với hành vi bị cáo 04 lần bán hêrôin cho  Vi Văn T, Đặng Văn T và Hứa Văn T2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 194 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào..…, mua bán trái phép.... chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bẩy năm đến mười lăm năm.

a,

b, Phạm tội nhiều lần.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, ...

Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra theo điều luật nêu trên.

Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình; trong quá trình điều tra, bị cáo đã tự giác khai nhận trước đó bị cáo đã bán ma túy cho Hứa Văn T2, Đặng Văn T và Vi Văn T, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 BLHS.

Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhưng có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy, lười lao động. Vì vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc mức hình phạt phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra, do đó cần xử phạt bị cáo từ 8 đến 9 năm tù, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân và để bán kiếm lời nên cần áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5 đến 6 triệu đồng xung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng:

+ Đối với 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với số tiền 100.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang, bị cáo khai là tiền cá nhân không liên quan đến việc mua bán ma túy nên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

+ Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia vỏ mầu nâu đã qua sử dụng, bị cáo khai mua để liên lạc hàng ngày và có dùng vào việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Jupiter, mầu đỏ BKS: 20L2 – 6548, bị cáo khai mượn của bà Phan Thị C là mẹ nuôi của bị cáo để đi lại, khi mượn bị cáo không nói là đi mua bán ma túy. Mặt khác tại phiên tòa hôm nay chị Phan Thị C khai: Ngày 28/6/2017 T mượn xe của chị đi có việc, chị không biết T1 dùng xe của mình để đi mua bán ma túy, chị đề nghị Hội đồng xét xử cho chị xin lại chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại. Xét thấy đề nghị của chị C tại hiên tòa hôm nay là có căn cứ, do đó HĐXX trả lại cho chị C quản lý, sử dụng.

(Số vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của chi cục thi hành án huyện Đồng Hỷ.)

Bị cáo đã bán Hêrôin cho Hứa Văn T2 (02 lần) Đặng Văn T và Vi Văn T tổng cộng là 400.000 đồng, đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần truy thu số tiền này.

Đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay xét thấy là phù hợp cần chấp nhận.

Về nguồn gốc số hêrôin bị cáo khai đã mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi không quen biết ở khu vực bến xe cũ (thuộc phường QT, thành phố TN) nhưng do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cư trú nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở để xác minh làm rõ.

Đối với Đặng Văn T, Vi Văn T và Hứa Văn T2 là người mua ma túy của bị cáo để sử dụng,  nhưng xét thấy hành vi của Đặng Văn T, Vi Văn T và Hứa Văn T2 chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự nên cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Cần tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hứa Văn T1 phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Hứa Văn T1 8 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/6/2017.

Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 194 BLHS, phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng Điều 228 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 41 Bộ Luật hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu A1, LK.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia, số Imel 352407/05/155811/3.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo số tiền 100.000 đồng.

+ Trả lại chị Phan Thị C 01 chiếc xe nhãn hiệu YAMAHA, Jupiter mầu đỏ BKS 20L2-6548, số khung RLCJ4B2105Y003597, số máy 4B21003597 xe đã qua sử dụng, không có chìa khóa, không có gương chiếu hậu, không có giấy tờ kèm theo.                   .

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho và tài khoản của chi cục thi hành án huyện Đồng Hỷ. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/11/2017 và ủy nhiệm chi số 20 ngày 16/11/2017)

+ Truy thu số tiền 400.000 đồng do bị cáo bán Hêrôin.

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Hứa Văn Thiện phải nộp 200.000đ án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2017/HSST ngày 17/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về