Bản án 82/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 82/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2020, đối với:

Ngô Sỹ T, sinh ngày: 18/7/19xx;

Nơi sinh, nơi cư trú: thôn A, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do:

Cha đẻ: Ngô Sỹ T1, sinh năm 1957; Mẹ đẻ: Mai Thị N, sinh năm 1957

Vợ: Nguyễn Thị Lệ T2, sinh năm 1983

Đều trú tại thôn A, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Năm 2001 thực hiện nghĩa vụ quân sự, đóng quân tại Quân khu Thủ đô đến năm 2003 xuất ngũ về địa phương lao động tự do đến nay.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình từ ngày 10/7/2020 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên Tòa.

* Bị hại: Ông Nguyễn Công T3, sinh năm 1967 (đã chết)

* 2.3 Người đại diện hợp pháp của bị hại:

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971 (Vợ ông T3)

- Anh Nguyễn Công D, sinh năm 1993 (Con ông T3)

- Anh Nguyễn Công K, sinh năm 2000 (Con ông T3)

Đều tại địa chỉ: Thôn 3 An Định, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

* Người đại diện theo ủy quyền của bà h, anh D, anh K:

Ông Nguyễn Công D1, sinh năm 1973 (em trai ông T3)

Địa chỉ: Thôn 3 An Định, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

2.2. Người làm chứng:

- Chị Mã Thị D2, sinh năm 1985

Địa chỉ: Thôn A, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Đình V, sinh năm 1973

- Bà Vũ Thị N, sinh năm 1960

Cùng tại địa chỉ: Thôn B, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Nhân H1, sinh năm 1987

Địa chỉ: Thôn C, xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Tại phiên tòa có mặt ông D1, bà N, anh H1; vắng mặt anh V, chị D2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 12/5/2020, Ngô Sỹ T điều khiển xe ô tô con nhãn hiệu CHEVROLET CRUZE biển kiểm soát 17A-060.xx (có giấy phép lái xe hạng C) đi theo hướng từ thôn An Định, xã TV đi thôn Văn Tràng, xã TV, đến khu vực ngã tư. Đây là đoạn đường thuộc khu vực đông dân cư sinh sống, có người và phương tiện qua đường, đoạn đường có biển cảnh báo nguy hiểm, đường được rải nhựa, đá bằng phẳng, trên mặt đường có vạch sơn vàng rộng 0,15m đứt đoạn chia mặt đường thành hai chiều đường xe chạy riêng biệt, khu vực ngã tư đường thoáng, tại các hướng đi không bị cây cối, vật làm ảnh hưởng đến tầm nhìn. T điều khiển xe với tốc độ khoảng 40 đến 50km/h, quan sát phía trước bên trái theo chiều đi của mình cách khoảng 15 đến 20 mét có ông Nguyễn Công T3 điều khiển xe môtô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 17B6-298.xx không đội mũ bảo hiểm đi từ đường khuyến nông thôn 2 An Định, xã TV hướng đến ngã tư đường trục thôn 3 An Định, xã TV. T điều khiển xe giảm tốc độ còn khoảng 30 đến 40 km và tiếp tục đi vào ngã tư, khi đến giữa ngã tư thì phần bánh trước bên trái xe ô tô do Ngô Sỹ T điều khiển đã va chạm vào phần đầu bánh xe mô tô do ông T3 điều khiển, làm xe mô tô của ông T3 bị kéo rê, đổ nghiêng sang bên phải, ông T3 bị ngã đập đầu xuống đường, xe ô tô do T điều khiển tiếp tục di chuyển được khoảng 10 mét nữa thì dừng lại. Hậu quả ông T3 bị thương nặng phải đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Phúc Sơn, đến 11 giờ 30 phút cùng ngày ông T3 tử vong, hai xe bị hư hỏng nhẹ.

- Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ và bản ảnh hiện trường do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy lập ngày 12/5/2020, xác định: Đoạn đường xảy ra tai nạn thuộc thôn An Định, xã TV huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Khu vực xảy ra tai nạn là ngã tư lệch nằm trên đường trục liên thôn An Định - Văn Tràng giao nhau với đường khuyến nông thôn 2 An Định, độ mở ngã tư vào đường khuyến nông rộng 09 mét. Đường liên thôn An Định - Văn Tràng là đường hai chiều, mặt đường bằng phẳng được rải nhựa đường, rộng 6,5 mét, trên mặt đường xe chạy có vạch sơn vàng rộng 0,15 mét đứt đoạn để phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, có cắm biển báo hiệu cảnh báo nguy hiểm “Giao nhau với đường không ưu tiên” (ký hiệu W.207d); “Đường có gồ giảm tốc”. Xác định phạm vi nguy hiểm từ vị trí đặt biển cảnh báo nguy hiểm đến hết đường giao nhau (ngã tư). Đường liên thôn An Định - Văn Tràng là đường ưu tiên; đường khuyến nông thôn 2 An Định rộng 03 mét. Độ xoải dốc từ đường khuyến nông thôn 2 An Định lên đường liên thôn An Định - Văn Tràng khoảng 10%.

+ Lấy hướng đi từ thôn 2 An Định (cầu Từ) đến thôn Văn Tràng làm chuẩn, lấy mép đường bên trái làm mép chuẩn; lấy cột điện kép ký hiệu 7+8 lộ 972 Dương Thanh trên mép đường bên phải là mốc đo chuẩn. Đánh số thứ tự vị trí phương tiện, dấu vết như sau: Vết cày đo 0,6x0,015 mét đánh số 1; Vết cày đo 4x0,015 mét đánh số 2; xe mô tô Biển kiểm soát: 17B6-298.xx đánh số 3; Đám máu loang đo 1,25x0,3 mét đánh số 4; Đám kính vỡ đo 0,9x0,2 mét đánh số 5; Về chắn mưa bên trái cánh cửa trước ô tô đánh số 6; Đám kính vỡ đo 2x2 mét đánh số 7

+ Hiện trường cụ thể các vị trí có khoảng cách như sau:

Trên mặt đường bên trái tại vị trí cách điểm mốc 19,6m về phía cầu Từ, cách mép chuẩn 2,1m là điểm đầu vết cày có số đo (0,6x0,015)m, vết cày liền mạch hướng từ xiên chéo từ phải sang hái, điểm cuối vết cày cách mép chuẩn 1,95m (Ký hiệu 1).

Cách điểm cuối (1) 2,17m về phía thôn Văn Tràng, cách mép chuẩn 1,15m trên mặt đường bên trái là điểm đầu vết cày có số đo (4x0,015)m, vết cày đứt đoạn, không liền mạch hướng từ xiên chéo từ phải sang trái, điểm cuối vết cày cách mép chuẩn 0,75m (Ký hiệu 2).

Vị trí điểm cuối (2) là bàn để chân trước bên phải xe môtô biển kiểm soát 17B6-298.xx (Ký hiệu 3). Tâm bánh trước, bánh sau của xe môtô lần lượt cách mép chuẩn là 0,37m và 1,03m.

Cách tâm bánh sau (3) 0,8m về phía thôn Văn Tràng trên mặt đường bên trái là đám máu loang có số đo (1,25x0,3)m, tâm đám máu cách mép chuẩn 0,9m (ký hiệu 4).

Cách điểm cuối (1) 2,1 m về phía cầu Từ trên mặt đường bên trái có rải rác các mảnh kính vỡ li ti.

Cách điểm cuối (1) 2,1m về phía thôn Văn Tràng trên mặt đường bên trái 1,85m là đám mảnh kính vỡ có số đo (0,9x0,2)m. Đám mảnh kính cách mép chuẩn 3m (ký hiệu 5).

Cách điểm đầu (2) 0,45m về phía thôn Văn Tràng, cách mép chuẩn 2,4m trên mặt đường bên trái là về chắn mưa cửa bên trái xe ôtô có số đo (1x0,1)m (ký hiệu 6).

Cách tâm (4) 7,4m về phía thôn Văn Tràng, cách mép chuẩn 3,3m là tâm đám mảnh kính vỡ có số đo (2x2)m (ký hiệu 7). (Bút lục số: 27-37)

- Biên bản khám nghiệm phương tiện, bản ảnh đối với xe ô tô mang biển kiểm soát 17A-060.xx và xe mô tô mang biển kiểm soát 17B6-298.xx do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy lập ngày 18/5/2020. (Bút lục số: 49-63);

- Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 98/PY/PC09 ngày 27/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận về nguyên nhân chết của ông Nguyễn Công T3:

Ông Nguyễn Công T3 bị đa chấn thương vùng đầu và toàn thân do tai nạn giao thông làm vỡ xương sọ vùng thái dương trái, chảy máu não, chết do chấn thương sọ não. (Bút lục số: 44).

- Vật chứng thu giữ: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy tạm giữ 01 (một) ôtô con nhãn hiệu CHEVROLET CRUZE biển kiểm soát 17A-060.xx; 01 giấy biên nhận thế chấp số 01.409/044/VIB của ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam chi nhánh Thái Bình; 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe ôtô số 008286, biển số đăng ký 17A-060.xx; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC7248031, biển số đăng ký 17A-060.xx hiệu lực đến ngày 13/6/2020; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ôtô số 90314543; 01 môtô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 17B6-298.xx; 01 chứng nhận đăng ký xe môtô số 024711, biển số đăng ký 17A-060.xx; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 3400363604xx do Sở giao thông vận tải tỉnh Thái Bình cấp cho Nguyễn Công T3, sinh ngày 04/04/1967, nơi cư trú: xã TV, Thái Thụy, Thái Bình; 01 giấy phép lái xe hạng C số 330162018857 do sở giao thông vận tải Hưng Yên cấp ngày 06/9/2016.

Quá trình điều tra xác định bị cáo Ngô Sỹ T, ông Nguyễn Công T3 là chủ sở hữu hợp pháp của các tài sản trên, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thái Thụy đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe và giấy tờ có liên quan cho bị cáo T và người đại diện hợp pháp của ông T3 quản lý. Riêng đối với 01 giấy phép lái xe hạng C số 330162018857 được lưu trong hồ sơ vụ án. Sau khi nhận lại tài sản, tất cả đều không có ý kiến gì.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Ngô Sỹ T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo Ngô Sỹ T đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình ông Nguyễn Công T3 số tiền là 100.000.000 đồng gồm chi phí mai táng, tiền bồi thường tổn thất tinh thần, thiệt hại về tài sản và các chi phí khác. Đại diện gia đình ông T3 đã nhận đủ, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Bản cáo trạng số 80/CT-VKSTT ngày 14/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Ngô Sỹ T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 3 tháng đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 năm 6 tháng đến 3 năm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật Dân sự chấp nhận sự thỏa thuận của đại diện bị hại và bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự chấp nhận việc cơ quan điều tra đã trả lại xe ô tô cho bị cáo và xe mô tô cho gia đình bị hại và giấy tờ liên quan. Tại phiên tòa trả cho bị cáo Ngô Sỹ T 01 giấy phép lái xe hạng C.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng và không tranh luận.

Ông D1 không có ý kiến tranh luận, không yêu cầu bồi thường thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo nhận tội và xin lỗi gia đình người bị hại. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, con còn nhỏ để cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 12/5/2020, tại khu vực ngã tư đường giao nhau giữa đường liên thôn An Định - thôn Văn Tràng với đường khuyến nông thôn 2 An Định, xã TV và đường trục thôn 3 An Định, xã TV, bị cáo điều khiển xe ô tô con, do đi không đúng phần đường, không giảm tốc độ, thiếu chú ý quan sát nên va chạm xe mô tô do ông T3 điều khiển. Hậu quả ông T3 bị thương, tử vong trên đường đi cấp cứu do chấn thương sọ não. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường; Biên bản khám nghiệm tử thi, bản ảnh tử thi ông T3; Bản kết luận giám định pháp y tử thi; Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông; Bản ảnh hiện trường và phương tiện; Biên bản tạm giữ phương tiện, tang vật liên quan đến vụ tai nạn giao thông; Phiếu kiểm định phương tiện; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng; Biên bản thỏa thuận cam kết; Đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự của bà h; Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của Ngô Sỹ T điều khiển phương tiện tham gia giao thông nêu trên đã vi phạm: khoản 11, 23 Điều 8; khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 12 của Luật giao thông đường bộ năm 2008; khoản 1 Điều 5 của Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo Ngô Sỹ T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chung tại địa phương. Do đó cần phải quyết định 01 hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi bị cáo gây ra. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại theo yêu cầu và đại diện gia đình bị hại đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bị cáo có thời gian tham gia quân đội và người bị hại cũng có một phần lỗi khi điều khiển xe mô tô thiếu quan sát khi qua đường giao nhau. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, phạm tội do lỗi vô ý. Bị cáo còn phải nuôi hai con chưa thành niên và bố mẹ già. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cho bị cáo được hưởng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, vừa tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo, lao động trong sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú, vừa có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo gây tai nạn với lỗi vô ý, khi điều khiển xe không sử dụng rượu bia, chất kích thích nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường số tiền 100.000.000 đồng bao gồm chi phí mai táng, tiền bồi thường tổn thất tinh thần, thiệt hại về tài sản và các chi phí khác. Tại phiên Tòa, người được đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy đã trả lại bị cáo 01 (một) ôtô con nhãn hiệu CHEVROLET CRUZE biển kiểm soát 17A-060.xx; 01 giấy biên nhận thế chấp số 01.409/044/VIB của ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam chi nhánh Thái Bình; 01 bản phô tô chứng nhận đăng ký xe ôtô số 008286, biển số đăng ký 17A-060.xx; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC7248031, biển số đăng ký 17A-060.xx hiệu lực đến ngày 13/6/2020; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ôtô số 90314543. Trả lại gia đình bị hại 01 môtô nhãn hiệu HONDA WAVE, biển kiểm soát 17B6-298.xx; 01 chứng nhận đăng ký xe môtô số 024711, biển số đăng ký 17A-060.xx; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 3400363604xx do Sở giao thông vận tải tỉnh Thái Bình cấp cho Nguyễn Công T3 nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên Tòa trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng C số 330162018857 do sở giao thông vận tải Hưng Yên cấp ngày 06/9/2016 được lưu trong hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong phần dân sự nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Sỹ T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Sỹ T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án 30/9/2020. Giao bị cáo Ngô Sỹ T cho Ủy ban nhân dân xã TV, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 484, 585, 586, 591 Bộ luật Dân sự công nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và người đại diện bị hại. Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tại phiên Tòa trả lại bị cáo Ngô Sỹ T 01 giấy phép lái xe hạng C số 330162018857 do sở giao thông vận tải Hưng Yên cấp ngày 06/9/2016.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Ngô Sỹ T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, ông D1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 30/9/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:82/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về